Chương 12 Trong ba năm, chúng tôi sống một cách khiêm - TopicsExpress



          

Chương 12 Trong ba năm, chúng tôi sống một cách khiêm tốn, tại ngôi nhà nhỏ của mình. Chúng tôi đã lần hồi làm quen được với hoàn cảnh. Nhưng sự thanh trừng đã bắt đầu hoành hành và lan rộng chung quanh như một bệnh dịch đậu mùa. Chúng tôi phải quyết định liều chết và vượt biên trước khi quá chậm. Ngạn ngữ có câu, không liều thì không bao giờ được gì hết. Ngay trước ngày chúng tôi ra đi, tôi cưỡi xe đạp tới một ngôi làng xa, nơi không ai biết tôi. Tôi vào trong nhà thờ nhỏ chói lọi dưới ánh sáng mặt trời mùa thu để cầu nguyện. Về sau, dù tôi đã tham quan được các nhà thờ đẹp hơn hết ở châu Âu, các nhà thờ ấy vẫn không thể làm cho tôi quên ngôi nhà thờ nhỏ mà tôi đã vào cầu nguyện hôm ấy. Các vị Thánh được vẽ bởi một bàn tay chất phác mỉm cười với tôi từ trên các bức tường trắng, một bà già nhà quê cắm hoa tươi trên bàn thờ, lặp bặp đọc kinh với cái miệng sún răng. Quỳ gối nơi hàng ghế cuối cùng, tôi chợt thấy vị linh mục đang ngồi nơi phòng xưng tội. Vì sáo cái cảnh tượng ấy lại khơi dậy nơi tôi một sự xúc dộng mãnh liệt đến như thế? Như tiếp xúc với một dòng điện, một cái rùng mình đột ngột làm sống lại nơi tôi toàn thể các kỷ niệm, cuộc sống trong hầm, lễ kết hôn của Eve và Grabiel, cái chết của người hùng Pista. Và bây giờ đây, ngày mai chúng tôi sẽ rời bỏ ngôi nhà nhỏ thân thương của chúng tôi. Đôi khi, định mệnh thúc đẩy những công dân hiền lành hơn hết đảm đương những trách vụ anh hùng. Một cách hầu như vô thức, tôi đến quỳ gối xuống ghế xưng tội bằng gỗ trắng. Vị linh mục liếc nhìn tôi một cái rất nhanh và ngài đưa bàn tay lên che hai mắt của ngài lại. Tôi thì thầm: - Thưa Cha, con không định xưng tội, con chưa dọn mình sẵn, con chưa suy nghĩ đến các tội lỗi của con. Có một điều mạnh hơn con thúc đẩy con tin cậy vào Cha. Nếu Cha biết co nlà ai, con sẽ nói với Cha rằng ngày mai con sẽ vượt biên với bố mẹ con. Con rất sợ làm cho Cha bị liên luỵ. Nhưng con từ xa đến đây, con đã vào đây một cách hoàn toàn ngẫu nhiên, vì thế con có thể trình bày với Cha chúng con sắp làm điều gì. Thưa Cha, con quá sợ. Con cầu nguyện nhưng không hết sợ hãi. Sau những lời cầu nguyện của con, chỉ có hư vô. Làm sao Chúa nghe được lời của con? Giọng của con yếu ớt, những tiếng kêu sẽ không bao giờ đến được tận Người. Vả lại, con có tội, vì con đã khóc bởi rất nhiều điều nhỏ nhặt trong suốt ba năm vừa qua. Trong lúc người ta chết chung quanh chúng con, con bất bình vì không bao giờ được khiêu vũ, vì con đã không thể đi chơi đâu dó với hai má hồng hào hân hoan. Ban đêm có những bóng ma ngồi nơi đầu giường con, những ảo ảnh rùng rợn thay thế co những giấc mộng đẹp của con và sáng sớm hôm sau, con không biết đó là những cơn ác mộng hay thật sự những người chết đã hiện hồn về để lôi kéo con xuống âm ty cùng với họ. Thưa Cha, con bất bình vì đã không thể biết được thế nào là sự vô tư lự của thời niên thiếu. Thời gian sung sướng của tuổi ấu thơ đã hoàn toàn tan biến trong ký ức của con. Tất cả đều đen tối chung quanh con. Không có gì khác ngoài sự lo âu. Khi một người nào dừng lại trước nhà, con tưởng tượng đó là một tên mật thám. Nếu con nghe có tiếng chân phía sau lưng con, con tưởng là con bị theo dõi. Tất cả những điều ấy chỉ là ảo tưởng, nhưng con bị gìay vò. Con mong muốn được sung sướng xiết bao…. - Cha không biết con là ai, cũng không biết con từ đâu đến. Một người trong hàng trăm ngàn người. Cũng như con nói nhân danh tất cả hàng trăm ngàn người. nếu con vượt biên được, bổn phận của con là kể lại những gì đã xảy ra tại đất nước này. Nhưng con hãy nhớ, công lý và nhân đạo quý hơn hết mọi sự. Vả lại tất cả những gì xảy đến cho chúng ta ở trần gian không phải là điều quan trọng lắm, bởi vì cuộc sống đích thực đang chờ đợi chúng ta ở thế giới bên kia trong cõi vĩnh hằng. Bà già đã làm xong công việc cung kính của mình và quỳ gối cầu nguyện dưới ngọn đèn dâu cháy trước bàn thờ. Tôi đi ra khỏi nhà thờ. Mặt trời lặn và bóng của cây Thánh giá đã lớn lên đến nỗi hình như nó trải dài ra đến tận tít mù và bao phủ toàn thể đất nước. Bóng đêm đã rủ xuống khi tôi về đến nhà. Trời mưa và tay nắm của cánh cửa cổng vườn lạnh ngắt. Tôi rùng mình khi bàn tay tôi tiếp xúc với nó. Tôi vào nhà, bố tôi hỏi: - Con ở đâu về? - Con đi dạo – tôi trả lời một cách mập mờ để thoái thác, rồi tôi ngồi xuống một cái ghế, nhìn thẳng trước mặt tôi. Bố tôi cầm giấy tờ nơi tay, mẹ tôi xếp áo quần vào một cái va ly. Cửa các tủ đều mở toang và trong một xó góc, một thùng sách đầy đến một nửa. - Khi nào chúng ta ra đi? – tôi hỏi và hơi run vì nghĩ phải đi ra khỏi nhà dưới cơn mưa tầm tã như thế này. - Tối mai, con ạ - mẹ tôi nói với tôi với giọng mà tôi thấy như giọng quở trách. Tôi ngồi co mình gần bên lò sưởi, tôi không có sức mà cũng không muốn nhúc nhích. Hơi ấm của lò sưởi đã làm cho tôi tê mê và tôi có cảm giác như mình đang ở trong một rạp chiếu bóng mà trong đó bố mẹ tôi chuyển động trên một màn hình rất lớn. thật là kỳ lạ, tất cả những gì chúng tôi có. Khi chúng tôi đến nơi này, cách đây ba năm, chúng tôi đã phải ra sức làm lụng như những người đi khẩn hoang ở miền Far West [1]. Chúng tôi đã đóng đinh vá víu lại các cánh cửa bị hư hỏng. Chúng tôi đã tìm kiếm các dụng cụ nhà bếp vứt bừa bãi trong vườn phía sau nhà.. Mới đầu các người nhà quê đã nhìn chúng tôi với ánh mắt nghi ngờ, như thể chúng tôi không phải là những con người sống, mà là những con ma không chịu biến đi sau một cuộc biểu diễn pháp thuật. Khi họ gặp chúng tôi ngoài đường, chúng tôi thấy họ muốn sờ thử chúng tôi và sau lưng chúng tôi họ trầm trồ với vẻ vừa sợ hãi vừa khâm phục rằng chúng tôi là những người còn sống sót sau cuộc vây hãm Budapest. Rồi dần dần họ đã quen thuộc với chúng tôi. Một hôm, một người, trước chiến tranh thường bán sữa cho chúng tôi, đã đem đến cho chúng tôi một con gà mái đang ấp và trứng. Ông ta nói: - Bây giờ cô lớn quá. Tôi lấy làm ngạc nhiên khi biết rằng sống trong hầm, tôi đã lớn lên thay vì chết. Thỉnh thoảng có những người đến đây từ Budapest. Đó là những con người ốm nhom ốm nhách vì đói, phần nhiều họ phải trốn bên trên trần các toa xe lửa. Họ kể những chuyện khủng khiếp gây ra bởi hậu quả của mùa hè nóng bức và tác hại của mặt trời làm thối rữa các xác chết. Chúng tôi im lặng như thể chúng tôi xấu hổ vì không còn có thể cảm thấy sợ hãi, rùng rợn, ghê tởm. Đôi khi tôi bị xâm chiếm bởi một nỗi sợ hãi thầm kín, nhưng đó chỉ là một sợ hãi về thể chất. Trong những lúc đó, tinh thần của tôi hình như chẳng có gì lêin hệ đến thân thể tôi. Những ngày trôi qua sau cuộc vây hãm, tôi đã cảm thấy như bị lừa gạt và phản bội. Tôi đã rời căn hầm tràn đầy hy vọng. Một đứa trẻ chết trong đó, nó tiếp tục sống như một người lớn. Tôi ao ước người ta sẽ hân hoan chào đón tôi. Nhưng người ta chỉ quan tâm đến bản thân họ và mặt trời mơn trớn vuốt ve đôi cánh tay mảnh khảnh và khuôn mặt xanhxao của tôi với sự thờ ơ như thể tôi chỉ là một cọng cỏ. Đối với tôi, thời gian đã trôi qua trong sự lặng ngắm cảnh hồ Balaton và trong sự chờ đợi một người chưa hề quen biết và người ấy sẽ yêu tôi. Nhưng chẳng có gì xảy ra cả. Chỉ có các mùa nối tiếp nhau trôi qua… Lúc bố mẹ tôi báo cho tôi biết chúng tôi sắp vượt biên, đối với tôi đó là tia hy vọng mới. Cuối cùng rồi cuộc đời mới có thể bắt đầu. Nhìn chung quanh tôi tự hỏi tôi có thể mang theo những gì. trước khi Budapest bị vây hãm, tôi có nhận được một cái áo ngủ, bằng lụa dài phết đất. Đó là cái áo con gái đầu tiên của tôi. Chưa bao giờ tôi mặc cái áo ấy. Tôi quyết định mang nó theo. Tôi hỏi đột ngột: - Còn con chó, nó sẽ ra sao? – nghe tôi hỏi, mẹ tôi đang xếp quần áo vào va ly liền ngừng tay lại ngay lập tức. Chắc con chó đoán biết tôi đang nói về nó, vì nó đi ra khỏi cái xó góc nơi nó đang nằm và ngúc ngoắc đuôi. Nó là một con chó tạp chủng, nhưng vô cùng khôn ngoan và thông minh. Mỗi cử chỉ của nó phản ảnh sự khiêm tốn, như thể nó mnxl vì nó xấu xí. Nó nhìn chúng tôi một cách chăm chú và hình như nó mỉm cười. Chắc nó tin rằng chúng tôi nói những điều tốt lành về nó. Phản bội một con chó con còn độc ác hơn phản bội một con người, vì nó không biết rõ người ta nói tốt hay nói xâu về nó, mà chỉ xét đoán dựa theo giọng nói và vẻ mặt của người nói. Nếu người ta nói với nó những lời độc ác hơn hết, nhưng với vẻ mặt tươi cười và với một giọng dịu dàng, nó sẽ đến liếm tay một cách biết ơn. Tôi không muốn phản bội con chó tội nghiệp của chúng tôi. - Rồi con chó sẽ ra sao? – tôi hỏi lại với một giọng giận dữ, để cho nó ý thức được nó đang bị đe doạ, nhưng nó không ngừng ngúc ngoắc đuôi. - Hay là đem nó cho ông công chứng viên? – mẹ tôi nói. Nhưng vừa nói xong, mẹ tôi đã thấy là không thể được, vì chúng tôi không thể nói với bất cứ ai rằng chúng tôi sắp rời khỏi nơi này. Với lý do gì mà chúng tôi phải gởi con chó tội nghiệp này cho một người nào đó? Vấn đề ấy chưa được giải quyết. Tôi đi đến tủ và điểm qua các đồ đạc của tôi. Tôi có một cái áo vải trắng để mặc mùa hè. Tôi sẽ mang nó theo vì bây giờ là tháng mười một và trời mưa. Tôi có một cái áo nhung màu rượu vang đỏ cắt may từ một tấm màn phòng khách. Chiếc áo ấy luôn luôn nhắc nhở tôi nhớ đến tấm màn và tôi không bao giờ chịu mặc nó, chỉ còn lại bộ đồng phục học sinh, cái áo thun và cái váy mà ngày nào tôi cũng mặc ở đây. Bộ đồng phục ấy bây giờ đã ngắn lại chật. Tôi có giày cao gót. Ngày mai chúng tôi phải cuốc bộ. Tôi chỉ cần đôi giày đế bằng mà tôi thường mang. Trong đáy tủ còn có sách vở của tôi và quyển nhật ký mà tôi đã viết trong thời gian Budapest bị vây hãm. Tôi phải đem đi hay để lại? Tôi còn thì giờ để quyết định. Có cả một đêm để suy nghĩ. Nhưng tối hôm ấy chúng tôi đi ngủ trễ. Cả nhà cẩn thận sửa soạn vali, như thể chúng tôi đi du lịch một cách hợp pháp. Chúng tôi tắt bớt đèn và kéo kín màn lại để bên ngoài không ai có thể nhìn thấy gì. Vì sao tất cả đều có vẻ xa lạ đối với tôi? Như thể tôi chẳng quan hệ gì đến những phút tôi đang sống. Tôi thấy hình như nét mặt của mẹ tôi càng lúc càng hốc hác thêm dưới ánh sáng của ngọn đèn dầu. Và tôi nhận thấy tất cả những gì mẹ tôi vừa xếp vào trong cái va li, chắc chắn sẽ được bỏ vào tủ trở lại! Tội nghiệp bố mẹ tôi! Con đường ngày mai dẫn chúng tôi tới một tương lai vô định sẽ là một thử thách vô cùng cam go đối với bố mẹ tôi. Đối với tôi thì sao? Tôi, tôi phải hồi sinh để có có thể cảm thấy bất cứ điều gì. Bây giờ đây, tôi đắm chìm trong một trạng thái uể oải, buồn ngủ và bướng bỉnh. Con chó ngủ trong cái xó góc của nó. - Tôi phải làm gì với cái đồng hồ báo thức đây? – mẹ tôi hỏi, như thể bà không thể tự mình quyết định được – Có phải đem nó đi theo không? - Con không biết – tôi đáp. Mẹ tôi cầm nơi tay một cái cổ áo giả viền đăng ten. Bà nói: - Cái này là hàng sản xuất tại Bruxelles. Tôi đã giữ nó suốt trong thời gian Budapest bị vây hãm. Tôi sè không bỏ nó ở lại đây. - Hãy đi ngủ đi – đó là tiếng của bố tôi trong phòng kế cận. Nhưng chắc chắn ông ý thức được rằng câu nói của ông không có một ý nghĩa nào trong lúc này. Cuối cùng rồi chúng tôi cũng đi ngủ. Cái gối của tôi trở thành cứng ngắc kể từ khi nó biết chúng tôi sắp đi. Người ta có thể nói rằng nó có thái độ phản đối. tôi thao thức hồi hộp lo âu. Tôi giãy giụa trên giường. Tôi ngồi dậy. Tôi còn sống không đây? Sáng hôm ấy, tôi thức dậy mà chưa hết bàng hoàng. Định thần, tôi thấy các đồ vật đã lấy lại hình dáng và màu sắc hàng ngày của chúng. Chỉ có điều là tất cả đều nặng hơn thường lệ. Tôi hầu như không cầm nổi ly cà phê của tôi. Trọng lực hình như tập trung vào đó. Mẹ tôi từ ngoài vườn trở vào nhà, bà đã ra vườn để cho gia súc, gia cầm ăn. Chúng tôi đã có nuôi chúng. Đó là một nhu cầu. Chúng sắp bị bỏ lại đây với số phận của chúng. Tôi không thể nuốt trôi được miếng bánh mì của tôi. Như thể có một quả bóng bằng sắt trong cổ tôi, tôi càng ăn, nó càng lớn lên. Phải làm một món gì đó để ăn trưa. Thí dụ một con gà, để bớt đi được một con. Tôi mệt nhừ đến nỗi không bắt được một con trong bầy gà. Chúng chạy trốn và kêu inh ỏi. Tôi đàn bỏ cuộc, vì tiếng om sòm huyên náo ấy làm cho tôi không chịu nổi. Trưa hôm ấy tôi hỏi bố tôi: - Chúng ta sẽ có một người đưa đường không? - Có – bố tôi đáp – Chúng ta chỉ việc đi đến gặp anh ta đúng giờ đã định. - Ở đâu? - Ở chỗ nhà hẹn trước. - Thành phố nào? Làng nào? - Tốt hơn là con không nên biết nhiều hơn. Buổi chiều, một trong những cô con gái của ông công tố viên đến thăm tôi. Cô ta xử sự như thể chúng tôi sống trong thời bình. Cô ta đến để nói chuyện, cô ta rất vui vẻ và chúng tôi vây quanh cô ta, chúng tôi vận động như những con rối cột nơi những sợi dây. Chúng tôi hẹn gặp lại nhau trong hai ngày nữa. Tôi để một hồi lâu mới quyết định về giờ giấc, vì cô ta nói năm giờ và tôi nói năm giờ mười lăm phút. Tôi làm bộ như sự khác biệt nhau mười lăm phút ấy là rất quan trọng. Cuối cùng tôi đã tỏ ra thoả mãn khi cô ta chấp thuận giờ hẹn của tôi. - Nhưng đừng bắt tôi đợi đấy – cô ta cười nói. Rồi cô ta kể rằng bố cô ta bị "theo dõi", rằng ban đầu gia đình cô ta thường bị người ta quấy nhiễu, người ta đến chỉ để xem các người trong gia đình có ở nhà hay không. "Chúng tôi đã quen với điều đó", cô ta nói thêm và lại cười, nhưng tiếng cười của cô ta làm cho tôi thấy khó chịu, vì tiếng cười không đúng lúc và tôi nhận thấy mắt cô ta vẫn nghiêm nghị. Mũi là điểm turng lập ở giữa một cái miệng và một cái cằm cười vui, với một vầng trán và đôi mắt nghiêm nghị. Điều gì sẽ xảy ra nếu tôi nói với cô ta rằng vài giờ nữa chúng tôi sẽ không còn ở đây? Ý nghĩ ấy kích động tôi đến nỗi tôi thành phố fđi ra ngoài vườn chốc lát, để hứng gió thổi vào mặt, làm dịu bớt nhiệt lượng nội tâm đang làm hai má tôi nóng bừng. Nếu bây giờ có một người ở bên cạnh tôi, tôi sẽ nói, ngay cả với một người lạ , rằng, trong vài giờ nữa, chúng tôi sẽ lên đường đi vượt biên. Tôi muốn chia xẻ điều bí mật đang đè nặng tôi. Con chó cọ xát vào bắp chân tôi. Nó đã đi theo tôi và uôn cong mình lên như một con mèo. Tôi đi vào nhà, run lập cập. Cô con gái ông công chứng viên đang từ giã bố mẹ tôi. Cô ta ôm hôn tôi và nhắc nhở: - Đừng quên nhé, ngày mốt đúng năm giờ mười lăm nhé. Chúng tôi nín thở cho đến khi cửa vườn đã đóng lại. - Cũng may là cô ta đã không ở lại chơi lâu hơn – mẹ tôi nói và bà mở một cánh cửa tủ, như thể bà muốn để cho một người đang trốn trong đó đi ra. Bố tôi cẩn thận lấy đồng hồ của ông ra: - Tàu sẽ khởi hàng lúc sáu giờ và bây giờ đã bốn giờ năm phút rồi. Chuẩn bị để đi cho kịp. Tôi vội vã đi lấy áo quần. Tôi mặc bên trong cái áo ngủ và cái áo nhung, rồi mặc phủ ra bên ngoài cái áo thun và cái váy thường ngày của tôi. Tôi có vẻ kỳ dị khi bước đi với thân hình phình to như thế. Bố mẹ tôi, cũng ăn mặc một cách lạ đời như thế, vì không thể mang theo nhiều hành lý được. Ngay cả mang một cái túi xách nhỏ đựng thức ăn cũng không được. Phải ăn một chúnt trước khi lên đường, nhưng không ai trong chúng tôi có thể nuốt được bất cứ cái gì. Con chó nãy giờ chạy lăng xăng không chịu ngồi yên tại chỗ, bây giờ đứng nơi cửa, ngúc ngoắc đuôi và nhe cả lợi ra. Hình như nó muốn nói: tôi là người đầu tiên đã sẵn sàng, chúng ta có thể lên đường. Một lần nữa, tôi lại bị xâm chiếm bởi một cảm giác cô đơn. Không có ai nói lời từ giã, không có ai đợi tôi gần hàng rào để hôn tôi và thề nguyền sẽ trung thành với tôi suốt đời. Tôi không có ai mà với người ấy tôi có thể đồng ý về một mật mã để liên lạc bằng thư từ với nhau, để hẹn ngày gặp lại nhau. Tôi đứng yên bên cái tủ. Tôi không khóc. Sự đời đã đến cái mức vô nhân đạo đến nỗi nó không còn để lại một lối thoát nhỏ nào để người ta dịu bớt nỗi lòng phiền muộn, ngay cả một giọt nước mắt cũng không có. Bây giờ tôi muốn chúng tôi đi phứt cho rồi. Mỗi phút còn ở lại thêm trong các bức tường này làm cho tôi suy nhược hơn. Bố mẹ tôi còn chưa hoàn tất việc ăn mặc. Tôi chờ. Trước chuyến đi đến một tương lai vô định này, tôi duyệt lại các kỷ niệm của tôi. Tôi muốn đem theo kỷ niệm của vài người. Nhưng không còn một gương mặt nào còn sống nơi tôi và lúc ấy đột ngột tôi nghĩ đến các tập vở nhật ký của tôi. Tôi liền lấy ra, gấp lại và đút vào các túi áo. Mẹ tôi cố gắng mặc vào chiếc áo măng tô lông thú lên trên nhiều lớp áo. Bà cũng khó khăn lắm mới nhúc nhích được trong lớp áo quần ấy. Thế là một con quỷ trong người tôi, hỏi tất cả những điều kia có thể có ích gì. Vì sao lại phải ra đi? Câu hỏi sâu cay và ác nghiệt. Kể từ lúc chúng tôi rời khỏi căn hầm ở Budapest gia đình tôi vẫn sống trong sự lo sợ. Nhưng bố mẹ tôi đã không bao giờ nói gì với tôi về vấn đề ấy. - Đây là phút cuối cùng để thử vượt biên – bố tôi nói một cách dịu dàng. Với câu nói ấy tuy không có ý, bố tôi đã chấm dứt một cuộc bàn bạc mà thật sự chưa được bắt đầu. Tôi đánh liều gợi ý: - Ánh mắt của bố tố cáo bố, bố phải đổi ánh mắt đi, bởi vì trong đôi mắt bố phản ảnh sự sợ hãi. - Con đừng nói dại – mẹ tôi mắng, với giọng không tự tin lắm và bà nắm cái bàn như thể bà muốn mang nó theo. Cả nhà có vẻ sửng sốt. Bị kéo bởi chính trọng lượng của nó, cánh cửa tủ tự động mở ra. Trên bàn, còn một miếng bánh mì chiên và một bình nước đầy đến một nửa. Mẹ tôi gói miếng bánh vào trong một cái khăn. "Để nó khỏi khô" bà nói. Khắp nơi đều ngăn nắp, một sự ngăn nắp quá tỉ mỉ, một sự ngăn nắp không có người sống ở đây. như thể ngôi nhà đã bị bỏ hoang. Tuy nhiên, chúng tôi còn ở trong đó, dùng dằng lưỡng lự. Bây giờ bất cứ ai cũng có thể vào để tiếp tục sống như chúng tôi đã sống ở giữa các bức tường này. Nhưng có người nào muốn sống cuộc sống ấy không? Khi đi ra, chúng tôi không tắt đèn. Chúng tôi khóa cửa lại. Mẹ tôi nói: - Chúng ta hãy giữ chìa khoá. Chúng ta còn có thể trở về. - Nếu chúng ta thành công, chúng ta sẽ không còn cần đến chìa khóa nữa và nếu chúng ta thất bại, chúng ta cũng không còn cần đến nó nữa…. Giọng nói của bố tôi dịu dàng và xúc động, như thể ông đã đọc câu ấy một trăm lần rồi. Và vung tay thật mạnh, ông liệng chìa khóa ra ngoài vườn. chúng tôi lắng nghe, nhưng không nghe thấy tiếng nó rơi. Như thể có một bàn tay vô hình đã chụp được nó trước khi nó rơi xuống đất. Mỗi cử chỉ, mỗi lời nói của chúng tôi đã được nghiền ngẫm kỹ càng từ nhiều tuần rồi. Chúng tôi biết phải trả lời như thế nào nếu người ta hỏi chúng tôi. Trước hết chúng tôi đi đến ga xe lửa. Chúng tôi chỉ mua vé đến ga kế tiếp để nhân viên bán vé không thể nói đích xác chúng tôi đi đến đâu. Đến ga tiếp theo, bố tôi sẽ mua vé đến thị trấn biên giới. nếu toán tuần tra trên xe lửa hỏi chúng tôi đến làm gì ở Ováres, chúng tôi sẽ nói ở đó có dì Charlotte, một người bà con xa và bà mời chúng tôi đến chơi. Đến Ováres, chúng tôi sẽ cố gắng xuống xe mà không bị người ta để ý lắm và chúng tôi sẽ đến nhà người đưa đường, ở ngoại ô. Chúng tôi sẽ đi theo ông ta. Ông ta sẽ đưa chúng tôi đến ga xe lửa của cái làng đầu tiên của nước Áo. Thế là chúng tôi sẽ đến Vienne. Chúng tôi có đủ tiền để trả công cho người đưa đường và để mua hai ngày Schillings tiền nước Áo. Sau đó sẽ hay. Đó là dự định của chúng tôi. Bây giờ chỉ còn việc là phải thận trọng để mọi sự diễn tiến theo như đã dự liệu. Ra khỏi nhà, chúng tôi đi chậm rãi ngoài đường lớn. Mới năm giờ nhưng trời đã tối thui. Trời mưa. Con chó đi trước. Nó đi, nó chạy, nó dừng lại và quay gót trở lui để chắc chắn là không lạc chúng tôi. Bố tôi đi một cách khó khăn, ông không thấy rõ trong bóng tối. Mẹ tôi nắm cánh tay tôi. Tôi toát mồ hôi. Nhiều lớp áo quá làm tôi tức thở. Chúng tôi đến ga. Từ xa, đoàn tàu chạy tới gần với tiếng ầm ầm càng lúc càng to hơn. Cuối cùng nó vào ga. Chúng tôi bước lên các bậc chân bằng sắt để lên tàu. Con chó cũng nhảy theo chúng tôi và nó nhảy lên được trên cấp dưới cùng thì một hành khách nôn nóng muốn lên, đã đá nó rớt xuống đất. Con chó lại cố nhảy lên, nhưng các cửa đã đóng lại rồi. Đứng trong hành lang toa tàu tôi không hạ được tấm kính xuống. Tôi cố hết sức kéo nó xuống làm rách cả vạt áo, mồ hôi bắt đầu toát ra sau lưng tôi và hai hàng nước mắt tôi chảy ròng ròng. Tôi áp mặt vào tấm kính cửa sổ toa tàu những người ta không thấy tôi đang khóc và tuyệt vọng, hai mắt tôi mờ đi, qua tấm kính mờ hơi nước, tôi nhìn đăm đăm con chó bị bỏ lại. Con tàu chạy và con chó sủa, nó chạy dọc theo ke ga, một bên toa. Nó chạy nhanh vô cùng và tôi có cảm giác nó sẽ bắt kịp chúng tôi. Nhưng nó càng lúc càng nhỏ đi, nó không còn sủa nữa, nó không còn sức để chạy nữa. nó chỉ còn là cái chấm nhỏ. Tàu đã rời khỏi ga và chạy giữa những cánh đồng tối đen. Tôi đi vào trong phòng. Trong đó ngoài bố mẹ tôi còn có ba người nữa. Hai người đàn ông và một người đàn bà. Hoàn toàn im lặng. Người ta chỉ nghe tiếng tàu chạy. Trước chiến tranh, trong những toa như thế, hành khách nói chuyện rất râm ran. Bây giờ, không ai dám bắt đầu câu chuyện. Câu nói nào cũng có thể nguy hiểm và không tài nào nhận biết được ai là mật thám. Sự im lặng ấy có một cái gì đó thật dễ sợ. Tôi không có đem sách theo. Bên ngoài, tối đen như mực. Tôi nhắm mắt lại và tựa đầu vào lưng ghế. Ánh mắt của người đàn bà ngồi trước mặt tôi xoáy vào tôi làm cho mặt tôi nóng bừng, mặc dù tôi nhắm mắt. Tôi quyết định nhìn lại bà ta, đó là cách duy nhất để làm cho bà ta quay đầu đi. Người soát vé đến. Ông ta đóng dấu vào vé của chúng tôi và không nói gì hết. Bố tôi hỏi: - Tới Bélatelep, tàu ngừng lại mấy phút? - Chuyến tàu này không ngừng lại ở đó – người soát vé đáp. – Đã từ hai ngày rồi, chuyến tàu đêm không ngừng ở ga ấy nữa. Người đàn bà ngồi trước tôi lại bắt đầu nhìn chúng tôi chằm chằm. Lần này, mẹ tôi đã kéo chúng tôi ra khỏi trạng huống khó xử bằng cách nói với bố tôi: - Thế thì tốt hơn hết là chúng ta sẽ đến thăm họ sau khi từ Ováres trở về. Ông có thể mu avé đến tận ga ấy không? - Có cách nào kéo dài vé của chúng tôi đến Ováres không? – Bố tôi hỏi người soát vé. Ông ta gật đầu và rút từ trong cái xắc ra một quyển sổ tay với rất nhiều tờ giấy than. Thật là rắc rối khi phải lấy vé trên tàu. Người soát vé phải ghi chép vào ba chỗ khác nhau, nhưng cuối cùng mọi sự cũng ổn thoả và bố tôi cất các vé tàu vào trong túi áo. Chúng tôi rất muốn cởi bớt áo măng tô ra, nhưng không dám làm, sợ người ta để ý. Chúng tôi phải ngồi yên im lặng và không động đậy. Sau một lúc lâu, mẹ tôi lại nói: - Hình như trời không mưa nữa. Bố tôi gật đầu và để tàn thuốc rơi xuống áo măng tô của mình mà sau đó ông phủi một cách rất tỉ mỉ. Tàu càng chạy đến gần thành phố biên giới, hành khách lần hồi xuống gần hết. Người đàn bà không mấy dễ thương kia cũng sửa soạn như hai người đàn ông. Chỉ lúc đó chúng tôi mới biết họ đi chung với nhau. Họ cũng đã xuống. Bố tôi lấy đồng hồ ra xem. Ông nói: - Tàu rất đúng giờ. Chúng tôi đi ra hành lang. Tàu chạy chậm lại và vào ga Ováres. Chúng tôi là những hành khách duy nhất đi xuống. Lúc ấy là chín giờ rưỡi. Ở trên tàu chúng tôi đã toát mồ hôi, bây giờ chúng tôi run lập cập trong gió lạnh và ánh trăng thanh. Một nhân viên hoả xa chạy dọc theo đường sắt, cầm nơi tay một cây đèn lồng dở. - Nếu người ta hỏi thì bảo là đi thăm dì Charlotte – bố tôi nhắc. và tay cầm vé, chúng tôi đi tới cửa ra, cuối cùng chúng tôi đã ở trước nhà ga, trên một con đường hầu như hoang vắng. Hai người cảnh sát đứng trên lề đường phía trước chúng tôi. Họ nhìn chúng tôi. Bố tôi bảo tôi: - Đừng quay mặt lui. Hãy đi mau lên. Chúng tôi đi theo ông. Ông biết rõ đường xá. Ông đã chuẩn bị kỹ lưỡng chuyến đi của chúng tôi. Chúng tôi rời khỏi trung tâm thành phố và đi theo các con đường nhỏ ít được chiếu sáng để đi càng lúc càng xa khỏi trung tâm thành phố. Đến vùng ngoại ô, bố tôi gõ cửa một ngôi nhà có cửa sổ sơn màu đen. cửa mở ra ngay và một mùi nồng nực khó chịu bay phả vào mũi chúng tôi. Một người đàn bà đưa chúng tôi vào nhà và dẫn vào một gian phòng được chiếu sáng bằng một bóng đèn sáng đến nỗi làm cho người ta quáng mắt. Các bức màn đều được kéo kín lại rất cẩn thận. Tôi liếc nhìn quanh một vòng. Trên một bếp lò lửa hừng hực, toát hơi nóng, có một cái chảo đang bốc lên mùi hành. Ngồi nơi bạn một người đàn ông đang ăn. Ông ta không thèm đứng dậy khi chúng tôi vào và chỉ ra dấu cho chúng tôi ngồi xuống. - Hôm nay không đi được! – Ông ta nói với chúng tôi. Cái cằm ông ta thật bự và tôi muốn thấy ánh mắt của ông ta, nhưng ông chỉ nhìn vào bát xúp của ông. - Vì sao? – Bố tôi ngạc nhiên hỏi. Mãi tới lúc ấy, ông ta mới ngẩng mặt lên nhìn chúng tôi. - Vì bà nguyệt! Bà sáng quá! Bà soi sáng tất cả. Không thể đi như thế được. Nhất là tôi không muốn liều mạng. Bà vợ ông ta đặt thêm một đĩa thức ăn lên bàn. Tôi dò xét nét mặt ông ta. Tôi nghe những lời giải thích của ông ta nhưng vì sửng sốt, tôi không hiểu hết ý nghĩa của tất cả những gì ông nói. Tôi chỉ hiểu như thế này, hôm nay không đi được. Có thể ngày mai…không phải vì ông ta. Ông ta không thể ra lệnh bà nguyệt được. Rồi ông giải thích cho chúng tôi bây giờ phải tạm lánh đi đâu đó và ngày mai trở lại đây vào lúc chín giờ rưỡi tối. - Nhưng biết ở đâu đêm nay và suốt cả ngày mai? – Bố tôi hỏi. chúng tôi không thể đến khách sạn, cảnh sát sẽ được báo động ngay lập tức. Bố tôi đợi người đưa đường cho chúng tôi ở lại trogn nhà ông ta đêm nay. Nhưng ông ta nói rất thẳng thắn và dứt khoát: - Tôi chỉ có nhiệm vụ đưa các người vượt qua biên giới, chấm hết, không có vấn đề ở lại trong nhà tôi, cảnh sát thường đi kiểm tra và mấy lúc sau này tôi đã bị họ để ý tới. Tôi chỉ còn làm một hay hai chuyến nữa rồi giải nghệ. Cái nghề này đã trở thành quá nguy hiểm. Bà vợ ông ta nói thêm: - Tốt hơn là các người hãy đi ngay lập tức. Tối mai hãy trở lại đúng giờ. Chúng tôi phải đi. Nhưng đi đâu? Tôi đói lắm. - Bà có thể cho tôi một chút ít nước không? – tôi nói với hy vọng bà ta cho tôi ăn. Bà ta vội vã rót nước vào một cái ly và đẩy nó vào hai tay tôi. Tôi chỉ uống hai ngụm. Nước âm ấm và có mùi thuốc khử trùng. Chú thích [1] Far West: miền Viễn Tây Hợp chủng quốc Hoa kỳ, từ Mississipi kéo đến bờ biển Thái Bình Dương Chương 13 Một lát sau, chúng tôi đã ở ngoài đường. Phải đi ngay lập tức theo một hướng nào đó, làm như thể chúng tôi đang đi đường. Những kẻ lang thang sẽ bị nghi ngờ và nếu người ta hỏi chúng tôi đi đâu, mọi sự sẽ hỏng bét. Thế là chúng tôi vội vã đi một cách mạnh dạn, như thể sợ đến trễ nơi người ta đang chờ chúng tôi. - Chúng ta đi đâu? – Tôi vừa hổn hển vừa hỏi bố tôi. Không khí lạnh lẽo mà tôi hít vào sắc như một lưỡi dao. - Có thể còn có một cơ may – bố tôi nói – Nhưng điều đó không thành công, chúng ta không còn giải pháp nào khác ngoài việc lại đáp một chuyến tàu và ở trên đó cho đến tối mai. Không thể đến khách sạn và cũng không thể ở trong phòng đợi của nhà ga, cảnh sát thường đến khám xét những nơi ấy. Chúng tôi đi theo những con đường lạ hoắc và cuối cùng đến trước một nhà thờ. Bố tôi bước lên tam cấp, chúng tôi bước lên theo. Cửa không khoá. Chúng tôi đẩy cửa bước vào. Trong bóng tối dày đặc, ngọn đèn chong đêm toả ánh sáng leo lét trước bàn thờ mờ ảo. Kiệt sức, mẹ tôi và tôi, chúng tôi ngồi ở hàng ghế cuối cùng. Còn bố tôi, ông biến mất. chúng tôi phải ngồi đây cho đến sáng sao? Và sau đó chúng tôi sẽ làm gì, suốt cả ngày? Chúng tôi không thể ở mười bốn giờ trong một nhà thờ. Bây giờ tôi phải câu nguyện nhưng tôi không còn đủ sức nữa. Tôi lạnh, tôi đói, tôi buồn ngủ. Bố tôi trở lại và sờ vào vai chúng tôi. Ông nói nhỏ: - Hãy đi theo tôi. Chúng tôi đi dọc theo lối đi giữa của giáo đường để vào trong phòng mặc áo lễ và chỗ để đồ thánh. Trong phòng tối om, nhưng tia sáng lọt qua kẽ hở của một cánh cửa cho chúng tôi thấy có một linh mục đứng trước mặt chúng tôi. Người bắt tay chúng tôi và bảo chúng tôi đi theo người. Người hạ thấp giọng nói với chúng tôi: - Các con hãy thận trọng và đi lom khom cúi xuống sát đất khi các con ở trong gian phòng sắp đến. Cửa sổ không có màn và, ngoài đường, có một ngọn đèn đường chiếu sáng cửa sổ ấy. Ngôi nhà ở phía trước mặt là một đồn cảnh sát và các người cảnh sát có thể thấy tất cả những gì xảy ra trong phòng ấy. Nếu chúng ta treo một bức màn, điều đó sè gợi sự tò mò của họ. Tôi muốn thấy nét mặt của vị linh mục ấy để biết mức độ nhân ái và sợ hãi của người, nhưng không thấy rõ được mặt người. Người mở cửa cho chúng tôi và chúng tôi đi vào bên trong phòng, cong lưng cúi xuống sát đất. Ngọn đèn ngoài đường đu đưa trong gió và bóng của nó giao động trên tường. Chúng tôi ngồi bệt xuống đất. Bố tôi nói: - Chúng ta có thể ở đây cho tới tối mai. - Làm sao ông có thể sắp xếp được việc này? Nhưng bố tôi không trả lời. Tôi nói: - Có thể cởi áo ra không? - Chỉ cởi áo măng tô mà thôi, nghe con – bố tôi dặn. Không bao giờ tôi tưởng tượng ngồi bệt dưới đất mà cởi áo măng tô lại khó khăn đến thế. Chúng tôi giúp nhau được chừng nào hay chừng nấy. Bố tôi già rồi và huyết áp cao, nhưng ông không phàn nàn. Bên ngoài, gió thổi càng lúc càng mạnh thêm. Dòng tia sáng của cây đèn lồng kính ngoài đường chiếu vào trên tường ở phía trước mặt, đến tận trân nhà, ở đó nó biến mất nhanh như chớp, rồi một chốc lát sau mọi sự bắt đầu lại như trước. Tôi chóng mặt như thể ngồi trên một chiếc tàu thuỷ. Tôi nhắm mắt lại, nhưng ánh sáng ấy vẫn làm cho tôi khó chịu. Tôi có cảm giác đang say sóng. Áo quần đầm đìa mồ hôi làm cho tôi nghẹt thở và nỗi khó chịu và uể oải ấy lôi cuốn tôi vào trong thế giới ác mộng. Tôi muốn mở mắt ra, nhưng cái tia ánh sáng giao động ấy làm cho tôi tê liệt. Trong cơn quay cuồng lo sợ và tê mê ấy, tôi thấy hiện ra một cái miệng mà môi miệng cong như vòng cung. Cái miệng ấy là của ai thế, khi nào và ở đâu tôi đã thấy và để ý đến nó, bây giờ tôi lại thấy nó? Nó mỉm cười và nói với tôi, nhưng tôi không nghe được nó nói gì. Cái đêm cực hình ấy tiếp diễn. Có lúc tôi thấy chúng tôi vượt qua biên giới, nhưng ánh sáng giao động của ngọn đèn đường lại kéo tôi trở lại với thực tế. Hai giờ sáng. Bố mẹ tôi ngủ. Cái miệng ấy là của ai thế? Tôi lại ngủ thiếp đi. Tôi chạy trên một con đường tối thui. Một người chết chạy tới gặp tôi, một trong những người nằm chết trước nhà chúng tôi ở Budapest. Người ấy ra dấu cho tôi và mỉm cười với tôi "Chúng tôi đã ăn cắp chiếc nhẫn đính hôn của tôi đeo nơi ngón tay – người ấy nói với tôi, với vẻ vui mừng – Tôi đi đòi người ăn cắp phải trả lại nó cho tôi. Chắc chắn lão ta cũng sẽ trả lại cho tôi cánh tay của tôi." Và tôi chợt thấy người ấy không có cánh tay. Một bông hoa trổ ra nơi vết thương của ông ta và càng lúc nó càng lớn lên để rồi che khuất hết khuôn mặt của người chết. cuối cùng rồi bình minh cũng ló dạng. Chúng tôi đã lấy lại được sức lực, giống như trên bãi chiến trường, người bị thương vừa được bình minh làm cho tỉnh lại và đang bò lết tới một ngôi làng. Chúng tôi đã rời khỏi gian phòng ông cha xứ như thế đó. Trong hành lang, chúng tôi mới dám đứng lên, vào một góc để đi vệ sinh và rửa ráy qua loa. Luôn luôn chúng tôi phải mặc áo quần trên người. Một lát sau chúng tôi lại ngồi bệt dưới đất trong gian phòng mà chúng tôi đã ngủ qua đêm, một linh mục già, nét mặt điềm nhiên mang cà phê đến cho chúng tôi. Người để các ly cà phê xuống đất như thể điều đó là chuyện bình thường. Người không nói gì hết và hành động như thể không nhìn thấy chúng tôi. Thời gian trôi qua một cách chậm chạp kinh khủng. Miễn là tối nay không có trăng. Bây giờ trời đang mưa và lạnh. Những giờ phút dài đằng đẵng ngồi bó gối bất động, rồi cuối cùng màn đêm lại rũ xuống. Ánh sáng giao động của ngọn đèn đường lại bắt đầu. Sáu giờ. Sau một thời gian chờ đợi vô tận, cuối cùng đã tám giờ. Tôi nép mặt vào hai bàn tay để che mắt tránh ánh sáng. Tôi có cảm giác như trán tôi tựa vào một bàn tay lạ. Cảm giác ấy không mới mẻ gì đối với tôi, nhưng bàn tay ấy là của ai và nó đã vuốt ve mơn trớn mặt tôi lúc nào? Chín giờ, chúng tôi bò ra khỏi gian phòng. Vị linh mục già đứng trong bóng tối mờ, ra dấu vĩnh biệt chúng tôi. Từ phòng kho đồ lễ, chúng tôi bước vào giáo đường. Ngọn đèn trên bàn thờ toả một thứ ánh sáng lờ mờ trước mắt tôi. Chúng tôi được trả lại cho đêm tối. chúng tôi vội vã đi tới nhà người đưa đường. Giữa đường, thỉnh thoảng chúng tôi nhìn trời. Những đám mây dày đặc giăng giăng, thấp đến nỗi người ta có cảm giác có thể sờ được chúng. Đến nhà người đưa đường, bố tôi vừa gõ tiếng đầu tiên thì cửa đã mở ra liền. Lần này, hai vợ chồng người đưa đường có vẻ dễ chịu hơn. Bà vợ hâm rượu để mời chúng tôi. Ngạc nhiên, bố tôi hỏi: - Uống rượu? Bây giờ sao? - Tôi đãi rượu tất cả mọi người trước khi lên đường – người đưa đường mỉm cười đáp – nó làm cho chúng ta tăng thêm sức mạnh, lên tinh thần. Tôi không thể làm gì được với những người sợ sệt. Mà đói bụNgười thì tất cả mọi người đều sợ, ngay cả tôi. Vậy chúng ta hãy uống, uống đi. Ông ta uống cạn một ly rượu lớn đang bốc hơi. Tôi đưa ly của tôi lên miệng và nếm thử thứ nước ấy. Nó cay cay và âm ấm. Tuy nhiên nó kích thích khẩu vị, tôi uống cạn ly một cách thèm thuồng và cương quyết. Nó làm cho chúng tôi phấn khởi lên, như thể người ta đã truyền huyết thanh cho chúng tôi. Tôi nói với bố tôi: - Con đã uống hết. Tôi cười toe toét. Tôi có cảm giác miệng tôi mở rộng quá cỡ sang tận mang tai và không bao giờ có thể trở lại nghiêm trang được nữa. Bố tôi nói: - Con giỏi lắm! – ông cũng lên tinh thần như tôi rồi với một phong thái ung dung, ông chỉ ra cửa – bây giờ chúng ta có thể lên đường được chưa? Người đưa đường uống thêm rượu. Mẹ tôi nói: - Ôi! Quá nhiều rồi, uống quá nhiều rồi. Nếu ông uống thêm nữa, ông sẽ lạc đường mất. - Và nếu ông ấy lạc đường, điều gì sẽ xảy ra? – tôi nói rồi cười toe toét. Tôi muốn khóc, nhưng tôi lại càng cười to hơn. Người đưa đường đột ngột nói: - Thôi, chúng ta đi – ông ta vừa nói vừa choàng chiếc áo măng tô vào người. Ông ôm hôn vợ ông rồi căn dặn chúng tôi: - Không bao giờ đi hàng ngang, người này bên cạnh người kia. luôn luôn đi hàng dọc , người đi sau cách người đi trước một chút, như thể không phải chúng ta đi chung với nhau. Nếu tôi ngừng lại, các người cũng ngừng lại. Nếu tôi nằm sấp xuống sát đất, các người cũng phải làm như thế. Nếu tôi chạy, các người cũng phải chạy. Bố tôi ngắt lời ông ta một cách chất phác: - Ông bạn của tôi ơi, tôi sáu mươi tuổi rồi, làm sao chạy theo ông nổi. Người đưa đường đột ngột trở lại lạnh lùng: - Bất luận bao nhiêu tuổi, chạy để cứu lấy cái mạng sống của mình thì cũng phải chạy – ông ta nói – Hãy lên đường thôi. Chúng tôi đi ra trong đêm tối. Người đưa đường đi đầu, mẹ tôi đi tiếp sau, rồi đến tôi. Bố tôi sau chót. Chúng tôi đi cách nhau từ sáu đến tám bước. Lúc ấy là mười giờ kém mười lăm, đường vắng tanh. Tiếng bước chân chúng tôi vang dội như thể đang đi dưới một cái vòm tò vò. Chẳng mấy chốc, chúng tôi ra khỏi thành phố và đi vào những ruộng nho. Nho được chăm sóc rất tốt, nhưng rất khó đi trong đó. Đất gập gềnh và trơn trượt. Trời lại tối thui. Người đưa đường đi nhanh và tất nhiên chúng tôi cũng phải đi nhanh theo. Bố tôi vấp và kêu lên một tiếng. Người đưa đường càu nhàu: - Im ngay! Trời tối, bố tôi bước đi một cách khó khăn, ông vấp váp và trượt chân luôn, nhưng không dám kêu. Tôi muốn dìu ông, nhưng trong ruộng nho, người ta chỉ có thể nối đuôi nhau mà đi. Cuối cùng chúng tôi cũng đến được dưới chân một ngọn đồi. Một con suối chảy trước mặt chúng tôi và trời bắt đầu mưa trở lại. Mưa che chở chúng tôi, vì nó làm cho tầm nhìn yếu đi rất nhiều. Lính biên phòng cũng như cả chúng tôi. Tác dụng của rượu trong người tôi đã hết. Tôi nhìn hai chân tôi và tôi nghe tiếng kéo lết của những bước chân mình. Tôi không biết tôi sợ hay không. Cái giai đoạn ấy làm tôi sửng sốt, tôi không theo kịp các biến chuyển đang tràn ngập người tôi và tôi cảm thấy lâng lâng như đã ra ngoài giới hạn nhận thức của con người. Tôi tiếp tục bước đi. Đột ngột người đưa đường dừng lại và đưa tay ra dấu cho chúng tôi ngồi xuống. Thở hổn hển, chúng tôi ngồi bệt xuống trên cỏ ướt. Thật là thoải mái được ngồi nghỉ một chút! Tôi nhìn đồng hồ dạ quang của tôi: mười một giờ. Lẽ nào chúng ta đã đi được một giờ rưỡi đồng hồ rồi? Mồ hôi bắt đầu lạnh trên lưng tôi. Tôi khát nước. Người đưa đường lom khom đi đến gần chúng tôi. Ông nói nhỏ: - Tôi không biết chúng đã đi qua chưa – rồi ông nói thêm – Tôi sợ. Hãi hùng và bực mình khi nghe ông ta nói như thế. Ông ta mà sợ, thì thử hỏi chúng tôi, chúng tôi còn sợ đến mức nào? Chúng tôi nằm dài xuống cỏ ướt. Không xa chúng tôi bao nhiêu là con đường lớn. con đường đá ấy rõ ràng và nhẵn nhụi trong đêm tối. Chúng tôi vô cùng lo sợ khi biết rằng chúng tôi sẽ phải băng qua con đường rộng và nhẵn nhụi ấy. Chúng tôi còn phải đợi như thế này trong bao lâu nữa? một tiếng còi xa xa xé tan tĩnh mịch. Vài phút sau, một chiếc xe chạy qua. Người đưa đường đứng lên và nói: - Bọn chúng đi rồi. chúng ta có thể thử đi qua. - Có phải con đường ấy là biên giới không? – tôi hỏi ông ta. - Không phải. Biên giới còn xa – ông ta đáp. Đây là biên giới? Biên giới như thế nào? Chúng tôi tới bờ đường. Mặt đường đúc bê tông trải rộng ra trước mắt chúng tôi như thể có một bàn tay vô hình nới rộng nó ra. Người đưa đường ra lệnh. - Chạy mau lên! Bố mẹ tôi băng qua con đường lớn như thể đó là sân trượt tuyết. Hai ông bà muốn chạy, nhưng cứ lảo đảo và vấp váp. Chúng tôi đã ở giữa đường. Một sức mạnh bên trong người thúc đẩy tôi chạy, nhưng tôi phải theo tốc độ của bố mẹ tôi. Người hướng dẫn đã ở phía bên kia đường từ lâu rồi. Ông ta hoa chân múa tay và càu nhàu nguyền rủa. - Hú hồn! Sao mà chậm thế? – ông ta nói khi chúng tôi tới nơi – Bây giờ có một khoảng rừng trống không cây, rồi mới tới rừng già. Con đường lớn trải dài phía sau chúng tôi như một giải băng ngăn tuyến. Chúng tôi chạy băng qua khoảng rừng trống và cuối cùng đã đến được chỗ có cây. Tôi tựa người vào thân cây ướt đầu tiên và thở dốc. Người đưa đường không ngớt càu nhàu: - Đây là chuyến chót mà tôi đi với những ông bà già. Thật chậm chạp như rùa! Chúng tôi tiếp tục đi, lá khô ngập đến tận mắt cá. Trời tối om, thỉnh thoảng một cành cây ướt chạm qua mặt tôi. Và tôi bỗng nhớ lại cái miệng và bàn tay mà tôi thường thấy trong các giấc mơ là của ai. Của Pista. Tôi thấy lại anh ấy khi, một hôm, anh đã nói với tôi một điều gì đó, gần một bên ngọn đèn mỡ. Tôi không còn nhớ những gì anh ấy đã nói với tôi, nhưng tôi thấy lại cái miệng và hai hàm răng trắng muốt của anh. Và bàn tay cũng của anh, cái bàn tay đã giúp tôi đi qua tấm ván bên trên người chết trôi. Chính ở tại đó, anh ấy đã vuốt ve mái tóc tôi. Và bây giờ tôi mới nhận thức được điều đó. Đúng, bây giờ, anh ấy đang ở bên tôi. Anh nắm bàn tay tôi, dẫn tôi đi. Người đưa đường nói thật khẽ: - Nằm xuống! Nằm xuống ngay lập tức! Chúng tôi nằm dài trong lá khô ẩm ướt, nhưng bây giờ tôi không còn cảm thấy bị bỏ mặc. Có Pista ở đây để giúp tôi vượt qua những khó khăn trở ngại cuối cùng này. Người đưa đường ra lệnh cho chúng tôi tiếp tục đi. Tôi chỉ nghe giọng nói hách dịch của ông ta, tôi chỉ biết tôi đang tiếp xúc với đất mùn ẩm ướt và không thấy gì cả, vì trời tối. Bố mẹ tôi thở hổn hển. Chúng tôi đi. Chúng tôi phải ráng sức đi nhanh một cách rất mệt nhọc và tôi cảm thấy không còn đủ sức để liếc nhìn đồng hồ nữa. Rừng đã trở lại thưa dần, người đưa đường càng lúc càng lo âu và cay nghiệt. - Rồi các người sè phải trả thêm tiền cho tôi đấy. Với các người già cả như các người, tôi sẽ đòi thêm tiền thôi. - Ông sẽ có tất cả những gì ông muốn, nhưng hãy đưa chúng tôi vượt qua biên giới – bố tôi nói và tôi nghe tiếng của ông như thể ông đang ở rất xa xôi. Tuy nhiên, ông chỉ cách tôi có hai bước. Lại một khoảng trống không có cây và đột ngột mặt trăng bắt đầu sáng lên vằng vặc một cách lạ lùng. Người đưa đường lại nguyền rủa. nhưng tôi không còn để ý đến điều ấy nữa. Tôi đoán mồ hôi như tắm, tóc tai, quần áo tôi ướt dầm dề. Cảnh vật trông sáng sủa hẳn ra dưới ánh trăng. Người đưa đường càu nhàu: - Đây là biên giới, mà cái mặt trăng quỷ sứ ấy lại sáng rực! chúng ta hãy chạy, các người hãy chạy, mệt lử cũng phải chạy. Vì sao tôi đã luôn luôn tưởng rằng một biên giới tất nhiên nhiên phải là một chướng ngại vật hữu hình? Một barriere, một bức tường như những bức tường xây dọc theo một số con đường núi. Và bây giờ, trong lúc tôi rágn hết sức để chạy, tôi ngạc nhiên thấy biên giới chỉ là cỏ đen và ánh trăng thanh. Tôi chạy, như tắm trong ánh trăng, và nơi mà nó sáng tỏ hơn hết, nơi mà bàn tay tôi, tóc tai tôi và trái tim tôi sáng tỏ hơn hết, chính nơi đó là biên giới. Hết khoảng trống, ánh sáng đột ngột nhường chỗ cho bóng tối. và tôi nghe tiếng của người đưa đường bây giờ đã bớt căng thẳng: - Các người có thể ngồi xuống được rồi. Chúng ta đã ở trong "vùng không có người". Tôi gục đầu xuống bên cạnh bố mẹ tôi. Tôi áp một bên má vào đất, vào mảnh đất vô chủ và bây giờ là đất của tôi. Mới nghỉ được một chút, người đưa đường đã giục: - Chúng ta hãy đi tiếp thôi. Chúng tôi đạp lên đất nước Áo. Nhưng cái nhà ga mà chúng tôi phải đến còn xa. Mẹ tôi cởi giày ra và bó chân với khăn phu la mà bà vừa xé làm hai miếng. Bố sẽ tiếp tục đi như thế đó. Bố tôi bước đi lảo đảo, tuy nhiên lòng can đảm của ông không hề bị lay chuyển. Tảng sáng chúng tôi đi đến một nhà ga nhỏ. Những bà bán rau quả rong và những ông mặc quần cụt bằng da đang ở trong phòng đợi. họ nói một thứ tiếng tôi không hiểu. Đây là lần đầu tiên trong đời, tôi ở nước ngoài. Nếu tôi nói, chắc họ sẽ nhìn tôi với sự ngạc nhiên. Người đưa đường đi đâu một lát với bố tôi rồi khi trở lại, ông ta bắt tay chúng tôi: - Các người gặp may mắn. bây giờ các người đã được bình an vô sự. Chuyến tàu sẽ đưa các người đến Vienne khởi hành trong mười lăm phút nữa. Và nói xong lời từ biệt ấy, ông ta biến mất trong đám đông. Mẹ tôi mang giày lại và tôi, tôi thèm uống một ly cà phê nóng, thèm không thể tả. Bố tôi nói: - Tôi đã mua nơi ông ấy hai ngàn Schillings. Ông ấy đã để lại với giá thị trường và đã mua vé cho chúng ta đi Vienne. Thật là một con người trung hậu! Tôi hỏi: - với hai ngàn Schillings ấy, chúng ta có thể đủ sống trong bao lâu? Bố tôi suy nghĩ một lát: - Chừng hai tháng. - Và sau đó, chúng ta sẽ ra sao? - Sau đó, phải bắt đầu làm lại cuộc đời… Phòng đợi càng lúc càng náo nhiệt. Các bà bán rau quả rong chất hàng lên những cái giỏ to và vội vàng đi ra sân ga. Tay chân chúng tôi tê cóng, chúng tôi lê bước với sự nỗ lực của người bị đắm thuyền, gần ngất đi nhưng còn chống chọi với sóng gió và đã bơi tới đất liền nhưng kiệt sức. Ngồi trên những cái ghế nhỏ dài, chúng tôi ngủ gà ngủ gật. một người soát vé đóng dấu vào vé của chúng tôi một cách thờ ơ. Phía trước tôi, một người đàn ông đốt thuốc hút ống điếu một cách trịnh trọng. Mùi thuốc rẻ tiền làm cho tôi buồn nôn. Trời lại mưa. Cảnh vật tiêu điều, bầu trời u ám, những đổ nát hoang tàn luôn luôn là những đổ nát hoang tàn diễn qua trước mắt tôi. Tôi có cảm tưởng mình ở trong chuyến tàu này từ nhiều năm rồi, như thể định mệnh đã đóng đinh tôi vào cái ghế gỗ cứng này và bắt tôi phải đi không ngừng ở giữa những đổ nát hoang tàn, giữa những con người im lặng. Tôi đã tưởng ở bên kia biên giới, ở bên kia nước Hungari, trong những đất nước mà người ta gọi là Tây phương, bầu trời sẽ xanh ngắt và người người được sung sướng. Họ sẽ vây quanh chúng tôi vui mừng và nụ cười đón tiếp của họ sẽ làm cho chúng tôi quên đi quá khứ. Nhưng, trong chuyến tàu này, không có ai mỉm cười với tôi và khói thuốc càng lúc càng dày đặc hơn và rất khó chịu. Chúng tôi đến gần thành phố Vienne. Tôi nhìn ra ngoài một cách khao khát. Trái tim đập nhanh. Đã biết bao lần, bố mẹ nói với tôi về thành phố tiên cảnh này, một thành phố luôn luôn vui tươi hớn hở. Tàu ngừng lại ở giữa những đống đổ nát. Đây chắc là nhà ga, vì tất cả mọi người đều đi xuống. Chúng tôi cũng xuống. Nước mưa chảy dọc theo các bức tường cháy đen. Chỉ trong vài giây, chúng tôi ướt dầm dề. Đám đông lôi cuốn chúng tôi ra cửa, áo măng tô của tôi càng lúc càng nặng và tôi muốn xé toang những áo quần mà tôi đã phải mặc, không thể cởi ra từ ba ngày rồi. Bỗng tôi cảm thấy các kim băng mà tôi đã gài để thâu ngắn chiếc áo ngủ mặc trong bị bung ra. Tôi đứng giữa mưa, nước mưa từ mặt chảy xuống áo măng tô, ngắn hơn cái áo ngủ bằng lụa mà tôi mặc bên trong. Màu áo xanh tươi của chiếc aó ngủ dài phết đất ấy và màu xám của chiếc áo khoác tương phản đến nỗi nó bắt đầu làm cho người ta để ý. Họ đứng lại ngắm nghía tôi mà chẳng mỉm miệng cười. Xấu hổ quá, tôi vừa khóc vừa lao mình tới một cái lều bằng ván gần đó. Cái áo ngủ làm tôi vướng chân, dính vào mặt cá, nước bùn lọt vào giày và bắn vào cái áo tơi. Đến được chỗ núp rồi, tôi phải đợi cho hai bàn tay hết run. Mới đầu muốn xé bớt phần vải lộ ra ngoài một cách dị hợm ấy, nhưng vải bền quá. Nó mạnh hơn tôi. Tôi đành phải mày mò mãi mới thâu ngắn nó lại được với các kim băng cũ. cuối cùng tôi cũng trở lại với bố mẹ tôi và chúng tôi rời khỏi nhà ga. Mưa giăng giăng đầy trời, chúng tôi chẳng thấy rõ đường xá gì cả. Chúng tôi cứ đi liều đến đâu hay đến đó. Cũng may là chúng tôi đi đến trước cửa một tiệm cà phê. Chúng tôi vào trong đó. Người bồi bàn liếc nhìn chúng tôi một cái rồi tiếp tục nói chuyện với một người khách. Tại một cái bàn khác, một cặp vợ chồng đang uống cà phê. Thỉnh thoảng người chồng mới nói vài tiếng, người vợ chẳng bao giờ trả lời. Chúng tôi ngồi xuống. Người bồi bàn tới gần và đưa khăn lau sơ cái mặt bàn. Bố tôi nói bằng tiếng Đức - Ba ly cà phê và một ít thức ăn. Chúng tôi mệt mỏi đến nỗi chẳng còn biết nói gì với nhau. Ngồi bất động, chúng tôi nhìn ra đường, trời đang mưa to gió lớn. một bà già mập phệ xô cửa bước vào, ôm trongtay một con chó chân lùn dài tai. Điều đó làm cho tôi nhớ lại con chó của tôi. Có thể nó còn chạy theo con tàu một cách tuyệt vọng và tin cậy vào lòng thuỷ chung của con người. Người bồi bàn mang đến cho chúng tôi cà phê và ba lát bánh mì màu xám. Tôi cúi xuống trên ly cà phê của mình và nhắm mắt lại. Tôi uống. Tuy chẳng có mùi vị gì là cà phê hảo hạng nhưng nó nóng hổi và sưởi ấm cả thể xác lẫn tâm hồn. ngoài đường mưa gió đã dịu bớt. Tôi ăn ngấu nghiến một lát bánh mì. Lúc ấy, tôi chợt nhìn thấy tôi trong một tấm gương ở trước mặt và tôi thấy tôi mỉm cười. Bố tôi nói thì thầm: - Chúng ta đã thành công. Ông bảo bồi bàn tính tiền và rút trong xấp tiền ra một tờ trăm Schillings để lên bàn. Tên bồi bàn đến gần ngắm nghía nhưng không đụng đến tờ giấy. rồi anh ta nói: - nó mất giá trị rồi. Số tiền mà ông có trong tay nó đã hết hạn lưu hành từ hơn một năm nay rồi, nó không còn giá trị gì nữa. trái tim tôi đập mạnh đến nỗi mỗi tiếng đập làm cho tôi đau nhói như bị một nhát dao đâm vào. Mẹ tôi khiếp sợ, bố tôi xanh mặt. chúng tôi nhìn sững các tờ giấy bạc để trên bàn. Người bồi bàn liền có thái độ hằn học: - Các người không có gì khác để trả tiền ăn sao? Người đàn ông ở cái bàn bên cạnh đặt tờ báo xuống và chống tay quan sát cảnh tượng ấy. Cặp vợ chồng im lặng kia cũng quay lui nhìn. Bà già có con chó lùn cũng quan sát chúng tôi. Mẹ tôi cởi chiếc nhẫn duy nhất còn lại của bà, chiếc nhẫn bà không bao giờ cởi ra, chiếc nhẫn mà bà đã đeo từ ngày đám cưới. Từ chiếc nhẫn hột xoàn chiếu ra một tia sáng màu xanh lấp lánh, như một tiếng kêu cấp cứu. Mẹ tôi đưa chiếc nhẫn cho tên bồi bàn: - Đây, để trả tiền cà phê. Chúng tôi không biết tiền của chúng tôi đã hết giá trị. Tên bồi bàn cầm chiếc nhẫn với vẻ hoài nghi: - phải đồ giả không? nhưng viên kim cương lóng lánh đến nỗi đã thuyết phục được anh ta. Tôi năn nỉ mẹ tôi bằng tiếng Hungari: - Mẹ ơi, đừng cho anh ta chiếc nhẫn ấy! Bố tôi liền nói: - Bắt buộc phải đưa thôi, con ạ. Chỉ Chúa mới biết điều gì đang chờ đợi chúng ta nếu anh ta sinh chuyện lôi thôi. Chúng ta vừa mới tới đây một cách bất hợp pháp và chúng ta không có giấy tờ hợp lệ. Mẹ tôi nói với người bồi bàn: - Chúng tôi sẽ đến chuộc lại chiếc nhẫn này. Anh bồi bàn lắc đầu và người ta thấy rõ anh ta đã quyết định sẽ không bao giờ nhận có quen biết chúng tôi và sẽ chối phăng tất cả mọi sự. Anh ta cầm chiếc nhẫn với vẻ suy nghĩ, thảy lên thảy xuống trong tay và đút vào túi. Vừa dọn dẹp ly dĩa, anh ta vừa nói với chúng tôi: - Các người vừa mới tới đây, không phải thế sao? Rồi anh ta rút lui vào phía sau gian phòng. Lo âu, tôi hỏi: - Và bây giờ? Bố mẹ tôi im lặng. Năm phút ấy đã làm bố mẹ tôi già đi nhiều tuổi. Một nỗi tuyệt vọng kinh khủng xâm chiếm lấy tôi. Tôi muốn khóc nấc lên, nhưng mắt tôi ráo hoảnh. Và tôi tự hỏi, tận đáy lòng của bản thân tôi, không biết rồi đây có một ngày cuộc đời sẽ thương hại tôi và sẽ đồng ý cho tôi có một cuộc sống riêng của mình hay không. Kết Thúc (END)
Posted on: Wed, 24 Jul 2013 08:03:26 +0000

Trending Topics



PRICE

Recently Viewed Topics




© 2015