Hoàng Trọng: Người Nhạc Sĩ Chân - TopicsExpress



          

Hoàng Trọng: Người Nhạc Sĩ Chân Thành ------------------------------------------------ Quỳnh Giao Tháng 7, 1998 Hoàng Trọng Tiếng Tơ ĐồngNgười nhạc trưởng đang điều khiển dàn nhạc. Hai hàng lệ làm nhoè mắt ông khiến ông không nhìn rõ được dòng nhạc. Nhưng ông có cần nhìn rõ đâu, bởi nó-dòng nhạc- có trong ông đã lâu lắm rồi, nó là xương là máu của ông mà!...Những người nhạc sĩ đang cắm cúi đàn, đều là những người đã làm việc với ông từ hơn hai thập niên trước, có người là bạn của ông từ nửa thế kỷ qua. Người ngồi dương cầm là nhạc sư Nghiêm Phú Phi, cộng tác với Hoàng Trọng từ bao lâu rồi nhỉ, có lẽ là từ khi mới du học bên Pháp về, vào đầu thập niên 50. Nơi hàng ghế đầu của dàn violons có Đan Thọ, bạn của ông từ ngày ở ngoài Bắc, trong ban nhạc Bảo An, người đã trình tấu những đoạn ad-lib có phong điệu tzigane bất hủ cho nhưng bài tango trác tuyệt của Hoàng Trọng. Tiếng đàn Đan Thọ vẫn như xưa: lả lướt mềm mại, nhưng khuôn mặt ông, cũng như của nhạc sĩ Hoàng Trọng, đã đầy nếp nhăn...Cạnh đó vẫn dàn violons có Phạm Văn Phúc, Trần Nhật Hiền, có Nguyễn văn Mô, có violoncelle Cao Thanh Tùng, những sinh viên trường nhạc ngày xưa từng cộng tác với ông khi vừa tốt nghiệp. Những mái đầu rất xanh ngày đó, nay đã ngả muối tiêu... Hai người ca sĩ nhìn về phía khán giả, tức là quay lưng về phía dàn nhạc đang trình bầy song ca bản Lạnh Lùng, bài hát ông viết từ mùa Đông 1946. Đó là bài song ca ông soạn cho một nam và một nữ. Người nữ ca sĩ đang hát, nhìn về phía khán giả, nhưng không nhìn thấy gì trước mắt cả, mà chỉ thấy lại khung cảnh cũ, đã mấy chục năm qua. Nàng thấy lại phòng thu thanh nóng bức, đầy khói thuốc lá. Nàng nghe lại tiếng cười nói vui nhộn và thân mật của những người ca sĩ xung quanh, mà nàng gọi họ bằng cô, bằng chú. Ngày ấy nàng mới 16, 17 thôi. Cô bé vừa chạy thục mạng gọi xich lô đến đài cho kịp giờ thu, trên áo dài trắng còn mang huy hiệu trường Gia Long. Cuốn sách nhạc nàng viết tay những bài hát mình yêu thích còn nằm trong cặp, để trên bàn. Cô Kim Tước vừa ký tặng nàng bài Đừng Xa Nhau của Phạm Duy, lời đề tặng là " tặng Trang bài của tôi đang yêu thích". Cô Mộc Lan thì đề tặng bài Lặng Lẽ của Lâm Tuyền với lời thủ thỉ "tặng cháu bài của cây si cổ thụ". Chị Mai Hương thì tặng bài Chú Cuội với lời đề " tặng Trang bài hát đầu tiên của chị". Ngay trang đầu tiên của tập nhạc là bài hát do người trưởng ban đề tặng: "tặng cháu bài chú viết từ mùa đông năm cháu vừa chào đời". Nàng thích làm sao lời đề tặng! Vì nó cho thấy rõ sự ý nhị kín đáo mà lại đầy tình cảm của ông. Ông mà đề năm 1946, thì cũng thường thôi, có phải không? Bài hát đó mang tên Lạnh Lùng... Người nữ ca sĩ chớp mắt, cố không để tâm trí mình đi quá xa, xa cái khung cảnh hiện tại, cô đang trình diễn trên sân khấu nhạc hội tại rạp Le Petit Trianon ở San Jose, miền Bắc California, kỷ niệm một đời phụng sự âm nhạc của Nhạc Sĩ Hoàng Trọng. Chính ông nắn nót viết lời nhắn, về hát cho ông..."Lần cuối đây", ông nhấn mạnh với nét chữ đã ngả nghiêng. Không cần phải kể thêm, chắc độc giả đã đoán cô học trò đó chính là kẻ viết bài này... Thấm thoát đã hơn 30 năm, kẻ từ khi nhạc sĩ Hoàng Trọng mời tôi hát cho ban Tây Hồ thay thế cho Mẹ. Tôi phải nói sao cho đủ lòng biết ơn của tôi đối với ông, khi mình còn là một đứa bé con 15 tuổi đã được hát với toàn người lớn. Người nhỏ thứ nhì sau tôi là chị Mai Hương cũng mới lập gia đình. Có chồng là thành người lớn rồi, tôi nghĩ vậy. Hát cho ban Tây Hồ là hạnh phúc lớn của tôi lúc đó, mặc dù, cùng lúc hoặc sau đó, các nhạc sĩ khác cũng lần lượt mời tôi cộng tác hát trên đài phát thanh Sài Gòn như: Văn Phụng, Nghiêm Phú Phi, Hoàng Lang, Võ Đức Tuyết, Vũ Thành, Đan Phú, Y Vân, Võ Đức Thu, Anh Ngọc, Phạm Duy, Nhật Bằng, Hoàng Nguyên (trong ban nhạc mà trưởng ban là nhạc sĩ Anh Việt, cũng có mặt tại San Jose ngày hôm đó). Và dĩ nhiên cả ban nhạc của Dương Thiệu Tước nữa chứ. Năm 1962, là năm mà đất nước đất nước còn tương đối yên ổn. Thời kỳ này chính quyền ông Diệm để ý và nâng đỡ nhiều sinh hoạt về văn hóa. Nơi trường nhạc người ta thấy có mời nhạc trưởng người Đức qua dậy và điều khiển dàn hoà tấu của trường nhạc. Vào năm trước đó, nhạc trưởng Otto Solhner đã hoà âm và điều khiển dàn nhạc của trường trong bài "Con Đường Cái Quan" của Phạm Duy, có đi lưu diễn ở Đà Lạt. Khi ấy tôi mới 14, lần đầu đi hát với người lớn, nhưng vẫn với tên Đoan Trang của mình trong Ban Thiếu Nhi. Cái tên Quỳnh Giao ra đời khi nhạc sĩ Hoàng Trọng mời tôi hát thay cho Mẹ. Ban đầu, tên tôi là Quỳnh Dao với chữ " D" mới đúng, nhưng Hoàng Trọng cứ ghi là Quỳnh Giao với chữ "G". Thành thử cũng chính ông là người làm tôi phải giữ tên mình là Quỳnh Giao với chữ "G", nhất là khi có truyền hình, generique bao giờ cũng ghi chữ G mặc dù tôi có dặn và các chú Phạm Duy, Anh Ngọc, Hoàng Lang đều ghi là Dao...Ông bướng lắm đấy! Lúc bấy giờ, Chủ sự phòng Văn Nghệ của đài là Vũ Thành. Vốn là Nhạc sĩ chân chính và cẩn trọng, ông chú ý đến phẩm chất nghệ thuật nên dành nhiều đặc ân cho các nhạc sĩ có chân tài như Hoàng Trọng, Nghiêm Phú Phi, Văn Phụng, Nhật Bằng. Ông xin trả thù lao rất cao cho phần hòa âm công phu, nhờ đó mà các ca khúc nghệ thuật của chúng ta được thăng hoa và tồn tại mãi trong lòng người yêu nhạc. Và ông vua tango Hoàng Trọng còn là vua hòa âm thời đó. Ông hòa âm cho dàn nhạc đã hay mà viết cho hợp ca càng xuất sắc. Hát bè phụ của ông là dùng hết công phu để nâng giọng solist, để làm nổi giọng chính. Bè ông viết không rườm rà mà đan lượn uyển chuyển đầy nghệ thuật. Hát trong ban của ông, ngoài đơn ca, tôi còn song ca, tam ca, hợp ca, rồi phụ họa, bài nào cũng tân kỳ và độc đáo. Vì vậy mà tôi thường háo hức trước ngày thu thanh, như chờ ngày hội vậy. Tính ông cẩn thận, thường đưa bài trước để tập dượt, ngoài xấp bài hát còn kèm miếng giấy nhỏ ghi chú, mà giờ đây tôi như còn thấy rõ trước mắt: 1/ Mưa trên phím ngà (đơn ca) 2/ Tình Xuân (tam ca) QG bè nữ 1 3/ Thương về quê cũ (hợp ca) 4/ Bạn Lòng (song ca vơí An) 5/ Thiên Thai (phụ hoạ) Cứ như thế hàng tuần, Hoàng Trọng lái chiếc lambretta mầu xám, áo chemise mầu xám hoặc xanh, chứ không có mầu nào khác, đến đài phát thanh. Ông luôn luôn đến đài trước giờ đã định. Hát xong, cả ban rủ nhau đi ăn phở 44, tôi nhớ là ông không ăn hành ngò, bị tôi ghẹo là ăn như đi tu. Gương mặt ông nghiêm nghị trong dáng u buồn, khi nào trêu ông cười được thì chúng tôi vui suốt buổi. Ông luôn đón nghe và thu thanh lại chương trình của mình, nên ca sĩ nào lỡ hát sai thì nơm nớp lo! Cô Mộc Lan hay đòi đứng cạnh tôi, nhờ tôi đếm mesure trước cho đỡ hồi hộp. Ông cứ đòi thu đi thu lại một bài hát cho thật hoàn toàn làm chú Anh Ngọc có lần đòi " bỏ của chạy lấy người, thà mất tiền còn sướng hơn, chứ hát nhọc quá", khiến mọi người được dịp cười ầm. Hoàng Trọng rất thích chụp hình, nên cứ bắt tụi tôi làm người mẫu cho ông huấn nghệ. Đôi khi để trả thù cho những lúc ông nghiêm nghị, tôi lè luỡi làm trò. Bức hình buồn cười ấy, năm 1992, sang Mỹ, ông đưa tôi xem lại. Cười đâu không thấy, tôi chỉ thấy cay cay nơi con mắt... Vào thời kỳ bắt đầu có truyền hình, Hoàng Trọng lập Ban Tiếng Tơ Đồng, mỗi lần đi thu mất cả một ngày thật vất vả cho giới nghệ sĩ chúng tôi. Ông chọn và mua vải bắt may đồng phục cả nam lẫn nữ, và thành phần ca sĩ thì mời thật đông. Chúng tôi biết chắc là ông lỗ vốn. Vậy mà Hoàng Trọng say mê, không mỏi mệt, ngay cả giây phút cuối cùng trên sân khấu ở San José mà tôi kể ở đoạn trên, ông vẫn say mê. Nhìn bàn tay ông run rẩy, tôi chỉ sợ ông sẽ ngất ngay lúc ấy... Hát xong tôi chào khán giả quay lại nắm tay cám ơn ông. Tôi thấy hai hàng lệ ông tuôn rơi mà mình chợt nghẹn ngào.. Hôm đó, tôi không thốt được lời cám ơn ông... Hoàng Trọng Các ca nhạc sĩ đều từ giã ông để về ngay sáng hôm sau. Riêng tôi vì đến từ xa, đã ở lại đến tối hôm sau mới đi Virginia. Buổi sáng chủ nhật đó, vợ chồng Hoàng Cung Fa, con trai ông đưa tôi đến thăm ông và dự định ở chơi cho đến giờ tôi ra phi trường. Vừa vào nhà, không khí đã có vẻ u buồn: người vợ hiền bé nhỏ của ông cho biết cả đêm qua Hoàng Trọng không ngủ được, và vừa nôn hết thức ăn ra rồi. Tôi vẫn cố hồn nhiên, cười cười: " chắc là chú vui quá vì đã xong chương trình hôm qua, nên mới không ngủ được chứ gì?" tôi trêu tiếp: "và lúc chị Tâm hát xong bài Chiều Rơi Đó Em cháu mới hết lo, chỉ sợ chú cảm động quá mà ngất đi đấy chứ!". Tôi nói đùa mà như tự trấn an mình, vì lúc đó chú than là hơi bị khó thở. Cả nhà bàn bạc không biết có nên đưa đi nhà thương hay không, vì nhà thương đã có hẹn là thứ năm mới vào khám để hôm sau mới mổ tim. Người con trai tên Út mới 17 tuổi mà chững chạc như người lớn, đột nhiên thưa với mẹ là nên đưa cha đi nhà thương ngay. Nét mặt cậu giống hệt chú Hoàng Trọng của tôi lúc trẻ, nên càng nhìn mình càng thấy xót xa. Cô gái út tên Kim Mi mới 12 tuổi xinh thật là xinh, mà hầu cha cũng thật là giỏi, đang ngơ ngác đứng nhìn. Cung Fa và Bạch La, là hai người con lớn từ xa đã về dự ngày nhạc hội của cha. Bạch La và Phước cùng hai con về từ bên Đức, còn Cung Fa và Dung về từ Virginia. Cả nhà lo lắng, ủ rũ. Mọi người chờ chú vào nhà trong thay áo, rồi đi hai xe đưa chú vào nhà thương Palo Alto. Tôi ngồi xe do chị Thu Tâm lái, nhìn chị, tôi thương cảm hết sức và hiểu được tình yêu của hai người. Tình yêu của họ có lẽ bắt đầu bằng sự cảm phục về tài, và tồn tại bằng sự chia sẻ nghệ thuật trong những năm cô đơn và đau buồn của người nhạc sĩ sau 75. Tôi thấy họ đẹp vô cùng, và tôi cũng thấy được cái hạnh phúc cuối cùng của chú Hoàng Trọng. Tôi ngồi ghế ngoài phòng đợi với Phước và Bạch La, khi hai mẹ con đưa chú vào phòng khám, mà lờ mờ nghĩ rằng có thể đây là lần cuối tôi được nhìn thấy chú... Trở về Virginia vài ngày, tôi gọi điện thoại hỏi thăm, thi gặp ngay giọng của Dung, người con dâu trả lời, tôi giật mình lo sợ: Dung và Fa đã về Virginia rồi, nay lại có mặt ở đó, nghĩa là tình hình không khả quan, có khi bệnh tình đã nguy ngập. Dung nói " chị gọi vào nhà thương cho cha em đi, chắc ông vui lắm đó. Mấy hôm nay cha nói mớ toàn tên bài hát và có nhắc đến tên chị nữa đó". Tôi nghẹn ngào xin số của nhà thương. Gọi vào gặp chị Thu Tâm, và được chuyển ngay cho Hoàng Trọng. Tôi hỏi thăm và cố nói vui: " Chú ơi, ráng khỏe lại nhé, mình còn làm vài chương trình nữa chứ!" Hoàng Trọng chỉ ừ ừ cám ơn, giọng thều thào như qua tấm lá chắn. Tôi lại hỏi: "Chú ơi, cháu muốn hát một bài tango của chú, chú khuyên bài gì, Tình Trăng được không?". Tôi nghe như có niềm vui: "Ừ, hát Tình Trăng thì hay lắm, chưa hát đĩa bài ấy đấy." Vài tuần sau thì mẹ tôi gọi từ quận Cam của Cali, báo cho biết chú Hoàng Trọng vừa ra đi. Sau đó Nguyễn Thành Vân (người song ca với tôi bản Lạnh Lùng ở San Jose) gọi báo tin, kèm lời than "trời ơi! ai biểu ông làm chương trình nhạc làm chi, mệt quá ổng mới vào nhà thương đó." Tôi an ủi Vân: " không đâu, ông có được niềm vui sau cùng đó, Vân à". Sống với âm nhạc cả một đời, chú đặt tên cho con toàn là nốt nhạc: Hoàng Nhạc Đô, Hoàng Cung Fa, Hoàng Bạch La, Hoàng Thiên Út (tức khóa Đô trong nhạc) chứ không phải út ít như nghĩa thường, và Hoàng Kim Mi. Ông chỉ thiếu Ré và Sol vốn là chữ khó dùng để đặt tên được vì nghe không thuận tai. Còn nốt Si thì tôi trộm nghĩ đó chính là tên của ông: Hoàng Trọng là người si mê âm nhạc đến tận cùng, và ông gắn bó với nhạc cho tới hơi thở cuối cùng. Hoàng Trọng viết nhạc từ thời còn thanh niên cho tới gần đây, và tôi ít thấy nhạc sĩ nào có trí nhớ hơn ông. Sau 1975, phần lớn các nhạc sĩ mất hết tài liệu và tác phẩm của mình. Người nào may mắn có tác phẩm trình bày trong tape, được người khác mang theo khi di tản, thì mới còn mong ghi lại lời ca ý nhạc của mình. Nhưng, nhạc thì không quên được, chứ lời thường bị quên. Phần lớn các nhạc sĩ còn phải hỏi ca sĩ về lời của bài hát mình viết. Các nhạc sĩ như Văn Phụng, Ngọc Bích, Tuấn Khanh, v..v..thường gọi chúng tôi hỏi lời bài hát, Cô Châu Hà cũng còn quên lời nhạc của chú Văn Phụng, và mẹ tôi không nhớ lời các ca khúc Dương Thiệu Tước bằng chính tôi, vì mình vẫn hát mãi... Chính các ca sĩ chúng tôi đã tiếp tục đem lại sự sống cho các ca khúc và giữ chúng tồn tại ở ngay trong tim mình. Cho nên, với thời gian thì quên lời là sự thường, đó là trường hợp chung. Chỉ riêng chú Hoàng Trọng thì có lẽ ông quên tất cả để chỉ nhớ nhạc, nhớ lời. Khi qua Mỹ năm 1992, Hoàng Trọng mang theo một cuốn sách nhạc nhỏ, giấy rất xấu, tự chép tay tất cả các tác phẩm của mình, từ bài đầu tiên cho đến về sau, từ lời tim óc của mình đến lời ca của người khác, với đầy đủ năm sáng tác nữa... Ông đã in lại tặng cho vài người trong chúng tôi mấy bản chép tay thật tỉ mỉ công phu đó. Đối với tôi, đây là món quà vô giá. Là một ca sĩ đã hát nhạc của ông từ mấy chục năm nay, tôi biết nói gì để cảm ơn Hoàng Trọng? Tánh ông ít nói, nên xưa nay tôi cũng ít có dịp thố lộ sự tri ân của mình. Từ nay, tôi chỉ còn lẩm nhẩm lại bài " Nhạc Sầu Tương Tư" để nghe tiếng lòng ấp úng của ông trước nhan sắc của một giai nhân Hà Nội thời trước, hay Lạnh Lùng để thấm thía với tình quê hương dạt dào trong lòng ông. Ai đó có nói là người Việt mình thương nơi chôn nhau cắt rốn đậm đà hơn các sắc dân khác. Tôi thấy đúng vì vẫn rưng rưng mỗi khi hát bài Lạnh Lùng, Chiều Tha Hương, hay Buồn Nhớ Quê Hương, Chiều Về Thôn Xưa, hoặc Đường Về...Những tuyệt tác trên nhịp điệu tango của Hoàng Trọng có một phong thái rất mới mà cũng rất Việt Nam. Nó có nét Tây Phương về nhịp điệu, mà lại rất Á Đông trong nét nhạc. Đông phương mà sang trọng chứ không bình dân quê kệch. Các ca khúc Mộng Ban Đầu, Mộng Ngày Hồi Hương hay Tình Trăng... nghe ròn rã nhịp điệu mà vẫn gợi lên hình ảnh đằm thắm của quê hương. Khi Hoàng Trọng yêu màu xanh, ông làm những bài xanh ngát hương đời và niềm tin. Những Mộng Đẹp Ngày Xanh, Khúc Ca Mầu Xanh, hay Thanh Bình Nhạc Khúc... chan chứa tình người và những hy vọng tươi đẹp cho đất nước. Ông đã làm cho lũ bạn trường Gia Long của tôi mê màu tím khi sáng tác Tôi Vẫn Yêu Hoa Màu Tím, Ngàn Thu Áo Tím hoặc Cánh Hoa Yêu...Tuổi hoa niên của chúng tôi có bị ảnh hưởng bởi dòng nhạc của ông, dòng nhạc mơ mộng mà chân thật như con người đó, ít nói, ít cười mà đằm thắm và đam mê kín đáo. Thưa chú Hoàng Trọng, Giờ đây, hồi tưởng lại cả một đoạn đường sáng tác của chú, từ miền Bắc tới trong Nam và trong những ngày cuối của cuộc đời trên đất Mỹ, cháu thật kính trọng lòng say mê và phục vụ âm nhạc nơi chú. Những người có may mắn để biết, làm việc và sống gần chú đều yêu thương và quý trọng chú. Có một điều rõ ràng hơn cả, là chú không bao giờ giả dối, làm dáng, cường điệu. Ngay cả sự vụng về của chú cũng là điều làm cháu yêu quý chú. Cháu biết ơn chú mà cũng biết là chú không cần cháu nói ra điều đó. Chú thấy không, đến phút cuối cháu cũng chỉ nắm tay chú mà không nói lên được điều gì cả. Cháu chỉ mong là chú hiểu cháu và nghe được lời cám ơn của cháu, bây giờ và mãi mãi. Giờ đây, ở nơi đó, chú có biết không, cháu vẫn còn nghe vẳng bên tai câu hát mà cháu có lúc đùa nghịch, bắt bẻ chú, vì chú dùng chữ "mà" lập đi lập lại nhiều lần: Mà mơ, mà nhìn lên cõi trời cao, Mà ngùi thương những năm nào, Mà mong tìm một ánh sao... Xin vĩnh biệt ánh sao. *********************** Hoàng Trọng, cung thương dệt tiếng tơ đồng ----------------------------------------------------- Vương Trùng Dương 2008 Hoàng Trọng(Bài nầy được viết nhân lễ tưởng niệm 49 ngày cố nhạc sĩ Hoàng Trọng do nhạc sĩ Nghiêm Phú Phi, nhạc sĩ Nguyễn Hiền, nhạc sĩ Ngô Mạnh Thu, nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng... tổ chức vào tối thứ Bảy, ngày 5 tháng 9 năm 1998 tại phòng hội nhật báo Người Việt, Little Sài Gòn. Và, đăng tải trên tạp chí Thế Giới Nghệ Thuật. Mười năm trôi qua, những nhạc sĩ trên đã ra người thiên cổ. Ðể tưởng nhớ đến nhạc sĩ tài danh có công đóng góp trong kho tàng âm nhạc Việt Nam, tưởng nhớ mười năm ngày vĩnh biệt cõi trần và ba mươi năm với tác phẩm cuối cùng của nhạc sĩ Hoàng Trọng, Cali Weekly xin gởi đến quý độc giả - VTrD 2008) Thế kỷ XX qua đi mang theo nhiều vì sao trong vòm trời âm nhạc Việt Nam, vĩnh biệt thế gian nhưng dư âm nhiều tình khúc bất hủ vẫn còn rung động bao trái tim thưởng ngoạn. Người nghệ sĩ tài hoa, đam mê nghệ thuật, giữ được nhân cách trong vườn hoa nghệ thuật đó, với Tiếng Tơ Ðồng vào cuối thập niên 50 đến 70, đánh dấu giai đoạn vàng son của nền âm nhạc nước nhà. Nhạc sĩ của dòng nhạc trữ tình và tình tự quê hương: Hoàng Trọng. Bày tỏ tâm tư tình cảm với người bạn đồng nghiệp sống với nhau qua chiều dài của lịch sử âm nhạc, theo nhạc sĩ Phạm Duy: "Hoàng Trọng đã từng phục vụ cho nền tân nhạc Việt Nam từ lúc phôi thai cho đến khi đã trưởng thành, tất cả đều có một hành trình rất phong phú... Trong đời tôi, chưa thấy ai nhu mì như nhạc sĩ Hoàng Trọng cả". Với nhạc sĩ Nguyễn Hiền, Hoàng Trọng là người bạn văn nghệ suốt cả cuộc đời sống với nhau bằng chữ tâm: tâm thành, tâm ý trong nghệ thuật và cuộc sống. Trong bài viết Thuở Bình Minh Của Âm Nhạc Việt Nam, nhạc sĩ Nguyễn Hiền viết: "Những ai sinh quán ở Nam Ðịnh đều biết thành phố nầy có những nhạc sĩ quen thuộc với đại chúng như Ðặng Thế Phong, Hoàng Quý Phạm Ngữ, tác giả bản Buồn Nhớ Quê Hương, Hoàng Trọng với những bản tango nổi danh và Ðan Thọ...". Theo nhạc sĩ Ðan Thọ: "Hoàng Trọng là khuôn mặt nghệ sĩ quý báu trong tình bạn từ lúc gặp nhau trong ban nhạc đầu tiên ở Nam Ðịnh vào thời tiền chiến và trải dài qua nửa thế kỷ cho đến lúc vĩnh biệt". Từ ca khúc đầu tay Ðêm Trăng năm 1938, mới 16 tuổi đến ca khúc cuối cùng Chiều Rơi Ðó Em năm 1978, trong 60 năm, nhạc sĩ Hoàng Trọng đã sáng tác hàng trăm bản nhạc, trong đó có nhiều ca khúc rất quen thuộc, được mọi người ái mộ và sống mãi với thời gian. Nhạc sĩ Hoàng Trọng được mệnh danh là Vua Tango của Việt Nam. Theo Dòng Thời Gian Hoàng Trọng, tên thật Hoàng Trung Trọng. Sinh năm 1922 ở Hải Dương, lớn lên ở Nam Ðịnh. Năm 11 tuổi học nhạc với sự chỉ dạy của người anh ruột, nhạc sĩ Hoàng Trọng Quý. Ông chơi được nhiều nhạc cụ như vĩ cầm, tây ban cầm, hạ uy cầm và sáo. Năm 15 tuổi, học nhạc tại trường Thầy Dòng Saint Thomas Nam Ðịnh và thành lập ban nhạc đầu tiên. Ban nhạc Nam Ðịnh gồm các anh em trong gia đình như Hoàng Trung An, Hoàng Trung Vinh và các thân hữu như Ðan Thọ, Bùi Công Kỳ, Ðặng Thế Phong, Phạm Ngữ, Vũ Dự, Tạ Phước... Ðến năm 19 tuổi, ông tiếp tục nghiên cứu âm nhạc qua sách vở và học hàm thụ từ Universelle de Paris... Hoàng Trọng là một trong những nhạc sĩ tiên phong sáng tác ca khúc cho nền tân nhạc Việt Nam. Ca khúc Ðêm Trăng (1938), Bóng Trăng Xưa (1940), Thu Qua (1941)... xuất hiện trong thời kỳ mở đầu nền âm nhạc Việt Nam. Năm 1945 Hoàng Trọng mở phòng trà, lập ban nhạc lấy tên Thiên Thai ở Nam Ðịnh. Cuối năm 1946, chiến tranh Việt - Pháp bùng nổ, Hoàng Trọng cùng gia đình lánh cư ở Phủ Nho Quan, Phát Diệm, rồi về Hà Nội. Ðược sinh hoạt trong môi trường thích nghi, qua làn sóng phát thanh, những ca khúc Ðêm Trăng, Thu Qua, Tiếng Ðàn Ai, Lạnh Lùng, Chiều Tha Hương, Khúc Nhạc Xuân, trong đó 2 nhạc phẩm tango Bóng Trăng Xưa & Phút Chia Ly đưa tên tuổi Hoàng Trọng sáng giá và lan rộng khắp mọi miền. Năm 1950, gia nhập vào Quân Nhạc Bảo Chính Ðoàn, điều khiển dàn nhạc nhẹ của chương trình phát thanh Bảo Chính Ðoàn trên đài phát thanh Hà Nội. Từ năm 1950 đến 1954, trước khi di cư vào Nam, Hoàng Trọng sáng tác trên hai mươi ca khúc: Ðường Về, Gió Mùa Xuân Tới, Say Say Say, Bến Mơ, Tiếng Nhạc Trong Sương, Buồn Nhớ Quê Hương, Bên Sông Ðưa Người, Cánh Hoa Xuân, Gió Lạnh Chiều Ðông, Chiều Về Thôn xưa, Mơ Xuân, Hoa Xuân, Gởi Hương Cho Gió, Hững Hờ, Một Nụ Cười, Tiếng Mưa Rơi, Vui Cảnh Mùa Hè, Khóc Biệt Kinh Kỳ, Tiếng Lòng, Lá Rụng... Trong đó có ca khúc Nhạc Sầu Tương Tư, nhạc phẩm trữ tình, tiếng lòng của con tim đang vương vấn trong tình yêu & nhạc phẩm Dừng Bước Giang Hồ sinh động, vui tươi được thịnh hành, trở thành quen thuộc, yêu thích, đưa tên tuổi Hoàng Trọng vang vọng cả nước. Năm 1954, đất nước chia đôi, theo làn sóng di cư vào Nam, ngoài ba mươi tuổi, xa gia đình, sống trong hoàn cảnh gà trống nuôi con: Hoàng Nhạc Ðô, Hoàng Cung Fa, Hoàng Bạch La còn thơ dại. Lấy âm nhạc như nguồn sống, niềm an ủi vô biên để dấn thân trên cuộc hành trình xa lạ . Nỗi niềm đó được thể hiện qua hai ca khúc Chiều Xưa Tưởng Nhớ & Trăng Sầu Viễn Xứ. Với khả năng và kinh nghiệm, lưu lạc ở Sài Gòn thời gian ngắn, Hoàng Trọng cùng bằng hữu thành lập ban nhạc với nhiều ca sĩ tên tuổi để trình diễn trên đài phát thanh Sài Gòn. Theo thời gian, Hoàng Trọng đảm nhận vai trò trưởng ban nhạc Hoàng Trọng, Tây Hồ, Ðất Nước Mến Yêu, lừng lẫy nhất, tên tuổi vang vọng với Tiếng Tơ Ðồng... hoạt động trên hệ thống truyền thanh Sài Gòn, Quân Ðội, Tự Do và băng tần Số 9 Truyền hình Việt Nam. Từ 1955 đến 1960, Hoàng Trọng sáng tác khoảng 40 ca khúc, trong đó có nhiều ca khúc quen thuộc, nổi tiếng như Tình Không Biên Giới, Mộng Lành, Bên Bờ Ðại Dương, Mộng Ban Ðầu, Bạn Lòng, Nhớ Về Ðà Lạt, Tiễn Bước Sang Ngang, Ðàn Yêu... Bước vào đầu thập niên 60, nhiều nhạc phẩm trữ tình, lãng mạn, chất chứa yêu thương làm say đắm hàng triệu thính giả ái mộ với Tôi Vẫn Yêu Hoa Màu Tím, Một Thuở Yêu Ðàn, Một Người Lên Xe Hoa, Hai Phương Trời Cách Biệt... xuất hiện thường xuyên trên làn sóng phát thanh và rất "ăn khách" qua các hãng đĩa. Nói đến Hoàng Trọng, phải nói đến Tiếng Tơ Ðồng, và ngược lại. Ông đã để lại lịch sử âm nhạc Việt Nam ban nhạc nổi danh, tạo dựng nhiều tiếng hát tên tuổi, đưa nhiều sáng tác của nhiều nhạc sĩ lên đỉnh vinh quang của nền âm nhạc. Khi được mời thành lập ban nhạc để trình diễn trên hệ thống truyền hình, Hoàng Trọng nhận lời. Sau thời gian chuẩn bị chu đáo, ngày 30 tháng 8 năm 1957, Tiếng Tơ Ðồng xuất hiện trên đài Truyền Hình Việt Nam, qui tụ với khoảng 40 ca nhạc sĩ đã gây "dấu ấn" sâu sắc trong làng ca nhạc. Từ đó, Tiếng Tơ Ðồng vô cùng hấp dẫn, lôi cuốn giới mộ điệu, khán thính giả bốn phương và cũng là môi trường sinh hoạt, tiến thân của nhiều nghệ sĩ. Tiếng Tơ Ðồng đánh dấu giai đoạn vàng son của nền âm nhạc Việt Nam, khán thính giả có dịp thưởng ngoạn cung bậc của thời tiền chiến, âm nhạc bán cổ điển, êm dịu, nhẹ nhàng, mượt mà, mang âm hưởng của thời kỳ lãng mạn Tây phương. Khi Tiếng Tơ Ðồng thành công trên bước đường nghệ thuật, Hoàng Trọng vừa lo chăm sóc Tiếng Tơ Ðồng mỗi ngày thêm sắc thái mới lạ, vừa chuyển hướng sang lãnh vực điện ảnh: nhạc phim. Từ năm 1968 đến 1974, Hoàng Trọng viết hầu như gần hết nhạc phim Việt Nam vào thời điểm đó như Vụ Án Tình, Xin Nhận Nơi Nầy Làm Quê Hương, Giã Từ Bóng Tối, Bơ Vơ, Trao Nhau Lời Cuối, Mộng Cô Ðơn, Còn Ðâu, Duyên Kiếp, Lá Rừng, Người Tình Không Chân Dung, Nàng, Nhặt Lá Vàng, Tình Yêu Không Ðến, Gọi Sầu, Ngậm Ngùi, Ngọc Lan, Sau Giờ Giới Nghiêm, Bão Tình, Muôn Kiếp Ngậm Ngùi, Sao Phụ Tình Anh, Hương Ngọc Lan, Ðường Dài Một Bóng, Năm Hiệp Sĩ Bất Ðắc Dĩ, Còn Gì Cho Nhau, Bẫy Ngầm, Lệ Ðá, Cho Nhau Ân Tình, Mang Xuống Tuyền Ðài, Chiếc Lá Bên Ðường, Hoa Lư, Mùa Mưa Thương Nhớ, Triệu Phú bất Ðắc Dĩ, Ngày Vui Năm Ðó, Vào Thu, Hòn Phụ Tử... Trong các bản phạt phim nầy tiếng hát Lệ Thu trong Người Tình Không Chân Dung rất được thịnh hành ở Việt Nam thuở đó như tiếng hát Celine Dion qua bản My Heart Will Go On trong phim Titanic hiện nay trên thế giới. Về giải thưởng, ông đoạt giải Văn Học Nghệ Thuật trong năm 72-73 về nhạc phim trong Triệu Phú Bất Ðắc Dĩ. Cũng như nhiều nghệ sĩ tài danh khác, bước đường sinh hoạt nghệ thuật còn dài để cống hiến nhiều tác phẩm nghệ thuật cho đất nước, nhưng sau tháng 4 năm 75 trái tim và khối óc sáng tạo không còn nữa, sống âm thầm với thời gian... năm 1978 mới sáng tác tác phẩm cuối cùng Chiều Rơi Ðó Em như lời tâm sự để chai sẻ nỗi buồn đau. "Chiều rơi đó em, trên đời anh hoàng hôn rồi Chiều rơi đó em, trên đời anh sương lạnh rồi Nhìn nụ hoa thắm mầu tươi, nở đẹp trong bóng chiều rơi Chợt làm bước anh ngập ngừng trên lối Chiều rơi đó em, trên đời anh lạnh tê người Chiều rơi đó em, trên đời anh phai nụ cười Cuộc đời anh vẫn lẻ loi, mà gặp em lúc chiều rơi Thì tình thắm cũng là muộn mất rồi!..." Năm 1992, Hoàng Trọng định cư tại Hoa Kỳ trong diện đoàn tụ. Ðược sum họp với con cái và sống với người vợ cuối đời - ca sĩ Thu Tâm - còn trẻ, chẳng được bao năm, Hoàng Trọng vĩnh viễn ra đi lúc 12 giờ 45, trưa thứ Năm, ngày 16 tháng 7 năm 1998 tại Paolo Alto, Bắc Cali, Hoa Kỳ, hưởng thọ 75 tuổi. Hoàng Trọng đã sáng tác khoảng hai trăm bản nhạc, ông đặt lời cho một số tác phẩm, còn lại với lời viết như Quách Ðàm, Hồ Ðình Phương, Hoàng Dương, Nguyễn Túc, Vĩnh Phúc... Những tác phẩm tiêu biểu theo mẫu tự alphabet gồm: Bắc Một Nhịp Cầu - Bạn Lòng - Bẽ Bàng - Bên Bờ Ðại Dương - Bến Mơ - Bên Sông Ðưa Người - Bơ Vơ - Bóng Trăng Xưa - Buồn Nhớ Quê Hương - Cánh Hoa Xưa - Cánh Hoa Yêu - Châu Ðốc Miền Quê Yêu - Chiều Mưa - Chiều Mưa Nhớ Bắc - Chiều Rơi Ðó Em - Chiều Tha Hương - Chiều Về Thôn Xưa - Chiều Vũng Tàu - Dừng Bước Giang Hồ - Ðêm Trăng - Ðêm Về - Ðẹp Giấc Mơ Hoa - Ðường Về -Ðường Về Dĩ Vãng - Em Còn Nhớ Không Em - Gió Lạnh Chiều Ðông - Gió Mùa Xuân Tới - Hai Phương Trời Cách Biệt -Hẹn Gió Xuân Về - Hình Ảnh Quê Xưa - Hoa Xuân - Hồn Thanh Niên - Hương Ðời Ðẹp Tươi - Hương Mộc Lan -Hương Yêu - Khóc Biệt Kinh Kỳ - Khúc Ca Màu Xanh - Khúc Ðàn Tâm - Khúc Hát Mùa Chiêm - Khúc Nhạc Xuân - Khúc Tình Ca Ngày Cưới - Lá Rụng - Lạnh Lùng - Mộng Ban Ðầu - Mộng Cô Ðơn - Mộng Ðẹp Ngày Xanh - Mộng Ðẹp Tình Xuân - Mộng Lành - Mộng Ngày Hồi Hương - Một Người Lên Xe Hoa - Một Nụ Cười - Một Thuở Yêu Ðàn - Mùa Hoa Thắm - Ngàn Thu Aó Tím - Ngỡ Ngàng - Người Ði Chưa Về - Người Tình Không Chân Dung - Nguồn Mến Yêu - Nhạc Sầu Tương Tư - Nhặt Lá Vàng - Nhịp Võng Ngày Xanh - Nhớ Hoài - Nhớ Thương - Nhớ Về Ðà Lạt - Phút Chia Ly - Say Say Say - Thôi Ðừng Lưu Luyến Em Ơi - Thu Qua - Thương Về Quê Cha - Tiễn Bước Sang Ngang - Tiếng Ðàn Ai - Tiếng Lòng - Tìm Lại Hương Yêu - Tìm Một Ánh Sao - Tình Ðầu - Tình Thơ Mộng - Tình Trăng - Tôi Vẫn Yêu Hoa Màu Tím - Trăng Lên - Trang Nhật Ký - Trăng Sầu Viễn Xứ - Vào Mộng - Vui Cảnh Mùa Hè - Vui Cảnh Xây Ðời... Trong nền điện ảnh Việt Nam, Hoàng Trọng viết nhạc cho rất nhiều phim, trong đó có những phim có tiếng như Xin Nhận Nơi Này Làm Quê Hương, Giã Từ Bóng Tối, Người Tình Không Chân Dung, Sau Giờ Giới Nghiêm, Bão Tình... Hoàng Trọng đã được giải thưởng Văn Học Nghệ Thuật trong năm 1972-1973 với nhạc của phim Triệu Phú Bất Ðắc Dĩ. Trái Tim Nghệ Sĩ Ông hoàng của nhạc khúc tango sau thời gian cố gắng thực hiện Ðêm Nhạc Hoàng Trọng để đánh dấu 60 năm cuộc đời âm nhạc và 40 năm với Tiếng Tơ Ðồng... Nói đến Hoàng Trọng phải nhắc đến Tiếng Tơ Ðồng và ngược lại. Hơn nửa thế kỷ dấn thân cho nghệ thuật, trong vòm trời âm nhạc Việt Nam, một vì sao rơi, bao nhiêu niềm thương tiếc. Âm nhạc có lẽ nhập vào tận huyết quản của Hoàng Trọng, yêu cung bậc đến nỗi dùng nốt nhạc để đặt tên cho con cái. Thế nhưng, nghệ sĩ sống giữa ngàn hoa song trái tim khô héo trước muôn màu khoe sắc!. Hoàng Trọng lập gia đình năm 1945, được 3 người con rồi chia tay người vợ đầu đời. Trái tim rướm máu, nỗi niềm đó thể hiện qua lời ca tiếng nhạc: "Ai thay ai đổi tơ duyên bước chân sang thuyền. Riêng ta ấp ủ trong tim tình đầu nào quên... Bao nhiêu lá thay màu,. Ngày nào ta vẫn khắc sâu ngàn câu mến thương" (Tình Ðầu). Niềm nhớ khôn nguôi với hình ảnh năm cũ vẫn canh cánh bên lòng "Ai biết thương nhớ bao giờ nguôi. Lạnh lùng trông cánh lá khô nhẹ rơi. Tìm dư âm cũ nhớ nhau mà thôi. Ðêm đêm dõi bóng một người. Tôi đi tìm thuở xa xôi" (Một Thuở Yêu Ðàn). Hơn hai thập niên, Hoàng Trọng sống trong thế giới âm thanh, thế giới đèn mầu, sống giữa bóng hồng thướt tha, yểu điệu thục nữ nhưng bao mối tình đi phơn phớt qua trái tim, lãng đãng như sương khuya, đắng cay trong hơi thở. Hoàng Trọng sống độc thân để nuôi con, ông để trái tim mình trọn vẹn với con. Trong 3 người con, Bạch La là con gái út mang hình ảnh yêu thương thuở xa xưa và Bạch La không muốn hình ảnh người đàn bà nào ngự trị trong trái tim người cha đáng kính. Bản tính nhu mì, con người mẫu mực, trái tim khô héo nhưng tỏa ra rừng âm thanh thánh thót, diệu vợi, huyền ảo, lời ca chất chứa yêu thương, đam mê, trữ tình, nồng ấm. Là nghệ sĩ, người cha, về tình cảm, khó có ai nghĩ đến con cái như Hoàng Trọng. Năm 1975 Cung Fa di tản sang Hoa Kỳ, Bạch La lưu lạc sang Ðức, ông sống trong cảnh cô đơn. Ông mang niềm bất hạnh lớn lao, không còn sống với âm nhạc, không được gần gũi với con cái. Sau 3 năm, con trai và con gái ở phương xa lập gia đình, ông tiến bước với người ca sĩ trẻ, nhỏ hơn khoảng hai con giáp, làm bạn đời để sống bên nhau khi tuổi xế chiều. Ông viết ca khúc Chiều Rơi Ðó Em cho Thu Tâm và hơn thập niên sau đó ông không sáng tác ca khúc nào khác. Với Thu Tâm, được 2 người con là Thiên Út và Kim Mi; Hoàng Trọng muốn truyền máu huyết âm nhạc lại người con gái và tuy còn nhỏ nhưng Kim Mi chịu khó học hỏi, rèn luyện âm nhạc để thừa hưởng di sản tinh thần của thân phụ. Trong sáu năm định cư tại Thung Lũng Hoa Vàng, Hoàng Trọng trở lại với âm nhạc nhưng không được không khí sôi động, hấp dẫn như thuở xa xưa. Ông trở lại với âm nhạc như chim muông trở về rừng tìm tiếng hót cho an ủi tuổi già, cho thỏa lòng khát khao mong đợi. Ông tìm được niềm vui, hạnh phúc gia đình với âm nhạc với sự rung cảm, đồng điệu trên bước đường sinh hoạt văn nghệ. Hoàng Trọng muốn thực hiện "dấu ấn cuộc đời nghệ thuật" nơi hải ngoại nên mê say lao vào công việc. Tuổi già, sức yếu nhưng khi bắt tay vào nghệ thuật lại miệt mài, bất chấp sức khỏe. Và rồi, Ðêm Nhạc Hoàng Trọng là đêm định mệnh cho cuộc đời nghệ thuật, có lẽ ông cũng linh cảm được điều gì đó khi quy tụ đông đảo thân nhân và bằng hữu để cùng nhìn nhau lần cuối trong ngày tháng lưu vong. Sau đêm đó, Hoàng Trọng ngã bệnh, khó thở, non mửa thức ăn, đi vào bệnh viện và bệnh tình ngày càng thêm trầm kha cho đến lúc vĩnh viễn từ biệt cõi trần. Rồi Ngày Sẽ Trôi Qua nhưng dòng nhạc vẫn còn lại vương vấn nơi chốn cát bụi trần gian. Ngàn Thu Aó Tím Từ ngàn xưa, mùa thu là mùa của thi ca, hội họa và âm nhạc. Mùa thu đến và được thể hiện với âm nhạc Việt Nam trên nửa thế kỷ, tuy nhiên những tình ca mùa thu đã đi sâu vào lòng người, vượt không gian và mãi mãi quyến rũ với thời gian. Nói đến mùa thu, với âm nhạc, nói đến tình ca. Thế giới âm thanh của thương yêu, nhung nhớ, khổ đau trong trái tim rộn rã, nồng nàn, say đắm và rướm máu. Nhiều tình ca mùa thu từ thời tiền chiến cho đến nay đều giống nhau từ giai điệu đến lời ca, êm ái, nhẹ nhàng, lả lướt, thướt tha... như thời tiết mà tạo hóa đã an bài. Những bài ca mùa thu đã trở thành quen thuộc như Buồn Tàn Thu của Văn Cao, Thu Quyến Rũ của Ðoàn Chuẩn - Từ Linh, Ðêm Thu, Giọt Mưa Thu của Ðặng Thế Phong, Thu Vàng của Cung Tiến, Mùa Thu Paris, Nắng Thu, Mùa Thu Chết của Phạm Duy, Mùa Thu Không Trở Lại của Phạm Trọng, Thu Ca của Phạm Mạnh Cương, Hoài Thu của Văn Trí, Thu Tím Lá Vàng của Vân Tùng, Mùa Thu Trong Mưa của Trường Sa, Mùa Thu Cho Em của Ngô Thụy Miên, Thu Hát Cho Người của Vũ Ðức Sao Biển, Thu Sầu của Lam Phương, Nhìn Những Mùa Thu Ði của Trịnh Công Sơn, Tiếc Thu của Trần Thiện Thanh... như những ca khúc tuyệt vời, đã một thời làm vang vọng khung trời mùa thu, vượt thời gian. Hoàng Trọng cũng góp mặt trong rừng âm điệu huyền nhiệm, du dương trác tuyệt đó để làm nhịp cầu chuyển tiếp từ tiền chiến đến nay, ngoài Thu Qua, có Ngàn Thu Áo Tím. Ở hải ngoại, dù không sống trong thời khắc bốn mùa như quê nhà nhưng niềm rung cảm trong thu với ca khúc mang hình ảnh mùa thu với niềm đau thương rất tuyệt vời như những bản nhạc bán cổ điển của những nhạc sĩ tài danh trên thế giới vào thời kỳ lãng mạn của âm nhạc vào thế kỷ XIX. Tiếng hát Thái Thanh, Quỳnh Dao... qua Ngàn Thu Áo Tím đã vượt thời gian và không gian. Thế nhưng, định mệnh với người nhạc sĩ lại đến trong âm nhạc, đôi khi bắt gặp sự linh cảm xa xăm nào đó với tình yêu. Khi viết ca khúc, Thu Tâm vẫn còn bé nhỏ và xa lạ nhưng bốn thập niên sau, ca khúc đó trở thành tiếng lòng, tâm sự của người bạn đời, góa phụ. Trong đêm tưởng niệm, tiếng hát Thu Tâm thay cho nỗi niềm thổn thức, khóc thương với hình ảnh tình quân: "Từ khi xa anh, em vẫn yêu và nhớ. Mà sao anh đi, đi mãi không về nữa. Một bóng áo tím buồn ngẩn ngơ, khóc trong chiều gió mưa, khóc thương hình bóng xưa... ... Anh xa khơi, bóng mưa giăng đầy lối. Anh xa xôi, áo bay trong chiều tím. Anh xa xôi, áo em tím lẻ loi, tím lên khung trời nhớ nhung đầy vơi... Ngàn thu mưa rơi trên áo em màu tím. Ngàn thu đau thương vương áo em màu tím. Nhuộm tím những chuỗi ngày vắng nhau, tháng năm còn lướt mau, biết bao giờ thấy nhau..." Cùng với ca khúc Nghìn Thu Áo Tím, ca khúc Tôi Vẫn Yêu Hoa Màu Tìm với tiếng hát Lệ Thanh đã làm rung động hàng triệu trái tim thưởng ngoạn âm nhạc. "Trời buồn đem mây tím về chơi vơi khiến lòng tối nhớ!: Một mùa thu xưa lúc còn thơ ấu bên vườn mộng mơ. Tôi đã yêu hoa màu tím. Tôi đã hay mơ thầm kín, Hay đứng bên song trông áng mây trôi lướt sang ngàn nơi. Chiều chiều đi trong nắng nhặt hoa rơi ép vào trang giấy. Và màu tôi yêu thuở nào xa vắng bây giờ còn đây. Hiu hắt trăng thu mờ úa Nâng cánh hoa xưa thầm nhớ Man mác không gian mây tím giăng ngang in vào thu vàng. Thu về hoa tím tàn, trần gian ngỡ ngàng và tim tôi xao xuyến mơ màng. Ôi màu hoa mỹ miều, gợi thương nhớ nhiều, ngàn năm tôi mãi còn yêu!..." Trong buổi lễ tưởng niệm, với chiếc áo dài màu tím, người góa phụ Thu Tâm với ca khúc ngàn Thu Áo Tím như lời vĩnh biệt, mọi người đều xúc động, không cầm được nước mắt! Hoàng Trọng đi suốt cuộc hành trình trong chiều dài của âm nhạc Việt Nam. Ông không còn hiện diện trên cõi trần, trong không gian vô tận, thoáng hiện một vì sao màu tím với giải ngân hà bồng bềnh như những chuỗi âm thanh. youtube/watch?v=Wen_Ab5n0sE
Posted on: Sun, 21 Jul 2013 03:42:13 +0000

Trending Topics



Recently Viewed Topics




© 2015