THƠ HAIKU NHẬT BẢN ĐÔI LỜI CỦA NGƯỜI DỊCH Haiku - TopicsExpress



          

THƠ HAIKU NHẬT BẢN ĐÔI LỜI CỦA NGƯỜI DỊCH Haiku là thể thơ ngắn độc đáo của Nhật Bản. Mỗi bài chỉ 17 âm tiết, chia thành ba phần, người Nhật viết liền một dòng nhưng khi dịch ra tiếng nước ngoài được ngắt thành ba câu. Vì chưa quen, người đọc lần đầu có thể hơi ngỡ ngàng, tuy nhiên, đọc kỹ và suy ngẫm, ta sẽ thấy thơ Haiku thật tinh tế. Mỗi bài, thường là một bức tranh phong cảnh nhỏ, một tâm trạng thoáng qua nhưng gợi cho ta nhiều điều. Nội dung và triết lý thơ Haiku không nằm ở câu chữ mà ở sự tưởng tượng của chính người đọc. Thơ Haiku thật kỳ lạ. Ngắn và giản dị. Nhiều khi không nói gì hoặc nói điều chẳng đâu vào đâu, thậm chí tưởng như “ngớ ngẩn”. Thế mà càng đọc, (trong trường hợp của tôi là càng dịch), ta cứ bị cuốn hút bởi sự “không có gì” và “ngớ ngẩn” đó. Tôi có cảm giác người Nhật viết Haiku không phải để truyền tải ý, mà hình ảnh, những hình ảnh chấm phá giản dị. Hình như cũng không có ý định nói điều gì to tát về triết lý hoặc tình cảm như ta thường thấy ở các dòng thơ khác. Có lẽ vì thế mà người đọc phải quen dần để cảm nhận và yêu. Trên thế giới có rất nhiều người yêu và bắt chước viết thơ Haiku Nhật Bản. Hầu như nước nào cũng có Hội những người yêu thích loại thơ này. Thậm chí còn có trường dạy cả cách viết Haiku. Bản thân tôi cũng phải trải qua một thời gian khá dài mới làm quen được. Cụ thể hơn 30 năm kể từ ngày tôi lần đầu tò mò tìm hiểu thơ cổ Nhật Bản, và đã dịch một ít, dịch có thêm vần, mà chỉ loại thơ năm câu (tanca) trong tập Manyoshu đồ sộ. Giờ thì tôi yêu, và kết quả của tình yêu đó là tập Thơ Haiku Nhật Bản lần này. Đầu tiên phải nhắc đến ba cây đại thụ của thơ Haiku Nhật. Đó là Matsuo BASHO, Yasa BUSON và Kobayashi ISSA. Mỗi vị tôi dịch khoảng trên dưới nghìn bài. Riêng Basho tôi có hai bản dịch khác nhau, từ hai nguồn khác nhau. Ngoài ba đại thụ nói trên, trong tập này tôi dịch một lượng khá lớn thơ khất thực và thơ thiền của Taneda SANTOKA, một trong những nhà thơ Nhật hiện đại được ưa thích nhất hiện nay, cũng như một số nhà thơ Haiku tiêu biểu khác. Dưới đấy xin trích giới thiệu với độc giả Văn Học Nước Ngoài một số trong 3500 bài Haiku của cuốn sách đang chờ xuất bản này. Thái Bá Tân ___________________ Matsuo BASHO Matsuo Bashō (1644-1694), nhà thơ thiền lỗi lạc thời Edo, tên thật là Matsuo Munefusa, là con trai út thứ bảy của một samurai cấp thấp phục vụ cho lãnh chúa thành Ueno, một tòa thành nằm giữa con đường đi từ Kyoto đến Ise. Mùa xuân năm 1679 Matsuo Bashō được phong tước hiệu Sosho (bậc thầy dạy thơ Haikai). Năm sau ông dời đến một túp lều bên sông Sumida. Cũng trong những năm này, ông tu tập thiền đạo với một thiền sư tại một ngôi chùa địa phương. Năm 1682 Bashō am bị cháy, ông dời về Koshu và từ đó lấy bút hiệu là Bashō (Ba Tiêu). Năm sau ông trở về Edo và dựng lại "ba tiêu am". Bắt đầu từ đây, định mệnh thơ haikai rơi vào tay của Bashō: ông đã sáng tạo ra một phong cách mới là Shōfu (Tiêu Phong, ẩn ý về đời người nghệ sĩ như những tàu lá ba tiêu bị xé tan trong gió những đêm giông bão), một phong cách dung hợp giữa sự trào lộng đời thường của haikai đương thời với yếu tố tao nhã tâm linh của thể thơ renga (liên ca) cổ điển. Ông cũng dần hoàn thiện một loại thơ ngắn 17 âm tiết trong 3 câu 5+7+5 từ những câu đầu (hokku) của thể thơ renga và thể thơ cực ngắn ấy về sau được mọi người biết đến với cái tên đã trở thành bất hủ - haiku. Trong đời mình Basho đã thực hiện nhiều chuyến hành hương dài khắp nước Nhật và đến năm 1693, ông quyết định đóng cửa sống trong cô tịch, không tiếp khách. Người ta nói cánh cửa nhà ông chỉ mở ra khi có một biến cố lớn, như hoa triêu nhan nở bên hàng dậu chẳng hạn. Trong thời gian này, cuộc đời và thơ ca của ông hướng đến một lý tưởng gọi là karumi, tức sự nhẹ nhàng thanh thoát tìm thấy ngay giữa cuộc đời ô trọc.(Theo Wikipedia). 1 Con quạ Ngồi trên cành cây khô Chiều thu. 2 Người thợ đập đá Ngồi nghỉ bên dàn hoa bìm bìm Cuộc đời này thật buồn. 3 Con ếch Nhảy xuống ao tù Tiếng nước té. 4 Làng này, vùng núi này Nơi không ai lui tới Sẽ rất buồn nếu không buồn. 6 Nước thủy triều nông Chân sếu ẩm ướt Vì hơi lạnh từ biển. 9 Đã mùa thu Có lý do để già Đám mây và con chim. 12 Trăng Một nhà sư Mang trăng đi qua bãi cát. 14 Biển xanh Sóng vỡ có mùi rượu gạo Trăng sáng đêm nay. 15 Trong thảm hoa màu trắng Đêm Chuyển thành ngày. 16 Người ta buồn vì vượn khóc Trẻ khóc thì sao? Gió thu. 19 Không hóa thành bướm Mùa thu Đang chín dần, thành mồi cho sâu. 20 Sắp thu Càng muốn ngồi Trong căn phòng trải bốn chiếu. 22 Thủy triều dâng Con sếu bước trên đôi chân ngắn Nước quá gối. 23 Đêm trăng lặng yên Có thể nghe trong tán lá Tiếng sâu ăn hạt dẻ. 26 Khóm liễu ngủ mơ màng Tôi cứ nghĩ họa mi Là linh hồn của nó. 28 Những cánh hoa dưa Rơi thành tiếng xuống đất Hoa lãng quên? 37 Uống trà sáng Nhà sư Lặng im như hoa cúc. 39 Đêm thu, mưa Nước chảy thành dòng trên lá chuối Tôi ngồi nghe tiếng đêm. 41 Trong chuồng bò Muỗi kêu o o Làm đen thêm cái nóng. 42 Trên đường này Một mình không bạn Đêm thu. 45 Hoa cúc thơm, trong vườn Chiếc dép mòn Trơ đế vẹt. 46 Lơ đãng Nghe lời đưa tiễn Nhớ mùa thu ở Kisô 53 Im lặng mênh mông Càng im lặng bởi tiếng dế Tắt dần phía đền Núi Đá. 54 Trong mơ, gió xuân thổi Cánh hoa bay tả tơi Tỉnh dậy còn nghe tiếng rơi. 58 Chiếc lưỡi lửa yếu ớt Dầu lắng tận đáy đèn Buồn sao! 61 Hoa tàn Hạt rơi xuống đất Như những giọt nước mắt. 62 Đông hay Tây Đều đau khổ đời này Dửng dưng gió thổi. 63 Trung Thu Dạo nhiều vòng quanh hồ Toàn đêm đen quanh hồ. 66 Đêm, chiếc bình vỡ Nước trong bình đóng băng Chợt tỉnh. 67 Trăng, hay trời đã sáng? Sống lười, theo ý mình Thế là đã hết năm. 71 Chiếc tổ cò ngả nghiêng trên cây Phía dưới, nơi không có gió Anh đào nở hoa thản nhiên. 72 Ngôi nhà không có đàn bà Cả bông hoa trắng trên bờ dậu Cũng làm tôi ớn lạnh. 74 Có phải gió Thổi mạnh làm gãy cành thông? Tiếng nước té thật mát. 75 Dòng suối trong Con cua nhỏ Theo chân tôi bò lên. 76 Đời quả xấu xa Nhưng chừng nào có anh ở đời Tôi còn bị đời lôi cuốn. 77 Hồn bay theo trăng Sáng ngời trên núi Để xác tôi trong bóng tối. 78 Đừng xem đời là quán trọ Khi anh, như tôi Muốn được ngủ đêm nay trong quán trọ. 80 Bỏ phí cuộc đời Là người Không bỏ phí cái gì. 82 Chỉ tiếng nước làm bạn Căn lều cô đơn Như chỗ lặng giữa hai đợt sóng. 85 Trăng tròn Bảy bài hát dài của người đàn bà Hướng về phía biển. 94 Cuối xuân, chim buồn Cá khóc Mắt đầy lệ. 98 Yên tĩnh Tiếng dế kêu Thấm từng kẽ đá. 102 Trên chuông đại nhà chùa Con bướm đêm Co mình, ngủ. 104 Trăng Chiếu xiên rặng tre Chim cu kêu. 107 Chuông chùa tắt Hương hoa đêm Làm chuông ngân thêm. 113 Tôi đi Anh ở lại Hai mùa thu. 123 Dẫu còn yếu gầy Vô cớ Bụi cúc đâm bông. 127 Ốm Ngồi nhai tảo khô Cát giữa hai hàm răng. 135 Mọi người ngày một già Đám thanh niên Êbisu Còn làm họ già thêm. 153 Mặt trời ngày đông Bóng tôi đóng băng Trên lưng ngựa. Yosa BUSON Yosa Buson tên thật là Taniguchi Buson, sinh năm 1716 ở làng Kema, tỉnh Settsu, ngoại ô thành Osaka, mất ngày 25 tháng 12 năm 1784, là thi sĩ và họa sĩ người Nhật trong thời kỳ Edo. Mồ côi cha mẹ từ nhỏ, năm 1737, ông đến thành Edo học vẽ và làm thơ theo Basho . Năm 1772, Buson ra mắt tập thơ đầu tiên . Người ta biết đến ông chủ yếu như một họa sĩ, và do là họa sĩ, thơ ông nhiều hình ảnh với những nét chấm phá độc đáo. Có thể ví ông như Vương Duy của Tung Quốc đời Đường. Cùng Matsuo Bashō và Kobayashi Issa, Buson được xem là một trong những nhà thơ vĩ đại nhất của Nhật Bản thời kỳ Edo 1 Bài thơ đầu năm viết xong... Nhà thơ Haiku Tự hài lòng. 2 Ngày dài hơn... Đâu đó phía cầu Con gà lôi vỗ cánh. 3 Ngày cứ dài thêm Bâng khuâng nhớ lại Những ngày xa xưa. 4 Chầm chậm, ngày tắt dần... Để lại tiếng vọng Trong góc nhỏ Kyôtô này. 5 Thầy tế ngủ gật... Ống tay áo trăng trắng Giữa hoàng hôn mùa xuân. 6 Trong căn lều nhỏ của tôi Không cúng Phật nến và hoa... Giờ hoàng hôn, tôi thấy buồn và sợ. 7 Ngủ trưa một chốc Tỉnh dậy Đã xế chiều. 8 Cho ai Chiếc gối kia trên sàn Giữa hoàng hôn mùa xuân? 9 Cánh cửa lớn ngoài cổng Trầm tư Giữa hoàng hôn mùa xuân. 10 Trăng mờ khói... Ai đó Đang đứng giữa vườn lê. 11 Cây lê nở hoa Sang sáng dưới ánh trăng... Một người đàn bà đọc thư. 12 Mưa xuân... Gần như tối hẳn Nhưng ngày chưa tắt. 13 Con sò nhỏ trên bãi biển... Mưa xuân Đủ để làm ướt nó. 14 Mưa xuân rơi... Quả bóng trên mái nhà Ướt như áo đứa trẻ. 15 Chọn lúc yên tĩnh Và vắng người Cây mẫu đơn nở hoa. 16 Cánh hoa mẫu đơn rụng Chồng lên nhau... Hai ba cánh một chỗ. 17 Mưa tháng Năm... Các ngôi nhà nhìn ra sông... Chính xác là hai. 18 Qua cầu... Tay xách dép Thật dễ chịu. 22 Con chim cu Bay chéo Qua kinh thành Hêian. 23 Giếng cổ... Vang lên trong đêm Tiếng con cá đớp muỗi. 27 Tự nhiên buồn Khi leo lên đồi... Hồng dại nở hoa. 28 Đêm hè quá ngắn... Mảnh trăng gầy Soi bãi nước nông bên sông. 29 Phòng người vợ đã chết... Tôi lặng người khi vô tình Dẫm lên chiếc lược của nàng. 30 Hơn cả năm ngoái Giờ tôi thấy cô đơn.. Hoàng hôn mùa thu. 31 Được ở một mình Giữa chiều hoang hôn Cũng là hạnh phúc. 32 Cao trên trời Trăng sáng đi qua Con phố nghèo nàn này. 33 Tung dây câu Gió thu thổi bay... Cái cảm giác buồn buồn khó tả. 36 Mùa đông, nửa đêm... Ai đó cưa gỗ Tiếng cưa hình như cùn. 37 Chiếc dép cỏ Lềnh bềnh dưới ao tù... Tuyết nhẹ rơi. 42 Ngỗng bay thành hàng... Trăng chấm dấu tròn Bên lề bầu trời. 44 Gió thu, bên bờ biển... Cá nhỏ phơi thành dây Từ mái hiên. 46 Ừ, có lẽ Mùa thu đã đến... Tôi hắt hơi. 52 Buổi chiều, gió... Nước Vỗ vào chân con diệc. 53 Cao trên trời Ngỗng bay như xếp chữ... Trăng đóng dấu bên cạnh. 55 Qua đồng hoang... Tôi cứ nghĩ Như có ai đang đi sau tôi. 59 Rạng sáng... Không bị chim cốc bắt Con cá bơi trong vũng nước nông. 60 Trăng ngả về Tây Bóng hoa Đổ về Đông. 63 Cơn gió lạnh Nhuộm trắng Bầy chim bên hồ nước. 68 Mùa đông, lạnh... Đắp chăn lên đầu Hay chân? 69 Bị hạt mưa rơi trúng Con sên Vội khép vỏ. 70 Trong ao tù Con ếch già thêm Mỗi lần lá rụng. 71 Ngừng ngủ, ngừng bay Con bướm nhỏ Đậu lên chuông đại nhà chùa. 74 Cỏ dính sương mù Nước lặng... Tối rồi. 75 Dưới mưa mùa hè Lối đi nhỏ Mờ dần. 77 Trời mát... Âm thanh tiếng chuông Thong thả rời khỏi chuông. 78 Những lá cỏ non... Tiếng thác nước Nghe vừa xa vừa gần. 79 Con bướm trên tay tôi... Nhẹ như không khí Như không có gì. 80 Khi hoa anh đào rụng hết Ngôi chùa trơ Sau những cành lá trụi. 82 Thắp nến Bằng lửa từ cây nến khác... Đêm xuân. 88 Trăng trắng Mỗi giọt sương Trên ngọn gai. 97 Gió thổi từ phía Tây Lá rụng Dạt sang phía Đông. Kobayashi ISSA Kobayashi ISSA (1763 - 1827) là một trong ba nhà thơ chuyên viết Haiku lớn nhất Nhật Bản (cùng Bashô và Busôn). Lúc sinh ông có tên là Kôbayashi Nôbuyuki, con trai một gia đình nông dân ở tỉnh Naganô ngày nay. Cuộc đời ông đầy trắc trở, khi chếtđể lại một di sản thơ khổng lồ gồm hơn 20.000 bài Haiku, rất được độc giả, cả xưa lẫn nay, mến mộ. Khác với Bushô khắc khổ và Busôn triết lý, thơ ISSA đầy tính nội tâm và trắc ẩn, thường đi sâu và từng chi tiết nhỏ của cuộc sống. Bất chấp đời riêng đầy khó khăn, thơ ông trong sáng và hường sử dụng nhiều lối nói nông thôn giản dị. 1 Con sên nhỏ Hãy leo lên đỉnh Phú Sĩ Nhưng chậm thôi, chậm thôi. 2 Tôi chạm nhẹ nhàng Vào mọi cái Thế mà luôn bị gai châm. 3 Yên tĩnh... Sâu dưới đáy hồ Một núi mây. 5 Cả những giọt sương long lanh Cũng có Giọt lớn, giọt bé. 6 Tốt hay xấu, luôn tin vào Phật... Tôi chia tay Với năm sắp hết. 8 Bóng dây bầu Chậm chạp bò Trên thảm cói. 10 Với tay lấy chiếc gối... Năm đã hết Hay chưa hết? 11 Cả thế giới đầy sương Một thế giới đầy sương, đúng thế Tuy nhiên... 21 Đầu xuân... Nhà sư Giả vờ ngủ. 22 Thật tuyệt Tia nắng sớm đầu xuân Trong ngôi nhà nơi tôi sinh. 24 Xuân đến Như từng đến Cả nghìn vạn năm nay. 25 Mồng một Tết... Mặt trời chiếu nghiêng Trên nhà kho hàng xóm. 27 Bầu trời đầu năm... Nếu không mưa Mai lại lên đường. 30 Ngày xuân yên bình... Ông sư trên núi Nhìn trộm qua hàng rào. 41 Ai kia Trong sương mù Vừa đi vừa hát? 42 Hôm nay, cả hôm nay Chìm trong sương mù... Ngôi nhà nhỏ. 43 Những tấm bia mộ Không già hơn Trong ngày sương mù. 45 Ngày đầy sương... Cây thông đứng buồn Sau quán trọ. 56 Con chó mẹ Nhúng chân đo độ sâu... Tuyết tan. 59 Ai kia đang đứng Sau tán lá xanh... Bầy quạ bay trên vũng nước nông. 60 Gió thổi, mây bay... Những đám cháy trên đồng Mang hoàng hôn đến. 61 Khi cây thông non này Lớn lên, nở hoa Ai sẽ ở đây? 66 Con gà lôi Nhón chân Nhìn tôi. 69 Đàn ngỗng vừa bay vừa kêu Để lại nước Nhật Rất xa phía sau. 71 Con ngỗng Nhón chân - Nên bay hay chưa? 72 Ao cũ Mời thầy Bashô đi trước Con ếch nhảy xuống nước. 74 Màu xanh nhạt Con ếch lắm lời Nhảy lên lá sen... 83 Cây mận đỏ ra hoa... Con chó mới tắm Sưởi nắng bên thềm. 88 Thật thà mà nói Tôi thích bánh bao Hơn hoa mận. 97 Thiếu anh Rừng anh đào Mới rộng làm sao. 98 Từ ngày thầy tôi chết Hoa anh đào Trở nên bình thường. 101 Bên phải - trăng Bên trái - nước... Cây liễu giữa đêm đen. 103 Đêm hè Trăng bên sông Như lát bánh cắt. 106 Mưa tháng Năm... Đêm, trên nương lúa Có tiếng người nói chuyện. 125 Hát khẽ thôi Chim cu... Nhà võ sĩ đạo đang ngồi bên. 126 Khi ngón tay bình minh Khẽ chạm vào cây liễu Chim cu kêu. 127 Giữa trưa... Bầy muỗi Nấp sau lưng tượng Phật. 128 Những cánh hoa mẫu đơn Rơi ngổn ngang... Chiếc chổi quét. 140 Bị sờ nắn, chèn ép Nấm ở Êđô Chuyển sang màu đỏ. 145 Nhìn núi Nhìn biển... Chiều thu. 146 Trong giỏ Cua đạp lên nhau... Đêm thu. 964 Tôi ngồi so Bàn tay nhăn nheo với quả mận muối... Cơn mưa đông đầu mùa. 977 Có cái gì cổ xưa Trong làn khói đang bay... Đã mùa xuân. 982 Cổng sau Tự mở... Một ngày dài. 983 Theo cách nghĩ Của cú mèo Ngày nào cũng dài. 1008 Ở đâu có người Ở đấy có ruồi Và Phật. Taneda SANTOKA Taneda Santōka, tên khai sinh là Taneda Shōichi, sinh ngày 3 tháng Mười Hai năm 1882 và mất ngày 11 tháng Mười năm 1940. Năm 1902, ông vào học khoa văn trường Đại học tổng hợp Waseda, Tôkyo. Ở đây, ông bắt đầu nghiện rượu và bỏ học năm 1904. Năm 1911 ông bắt đầu dịch và in các tác phẩm của Ivan Turgenev và Guy de Maupassant trên tạp chí văn học Seinen với bút danh Santôka (Lửa trên đỉnh núi). Cũng năm ấy ông gia nhập nhóm các nhà thơ haiku nơi mình sống. Cuộc đời Santôka đầy trắc trở với việc làm và gia đình, chủ yếu vì tật nghiện rượu của ông. Ông còn bị nhà chức trách bắt giam một thời gian vì nghi là cộng sản. Năm 1924, đang lúc say bí tỉ, ông nhảy vào tàu hỏa, chắc với ý định tự tử, nhưng người lái tàu kịp dừng trong gang tấc. Sau đó ông được người ta đưa vào chùa Hôon-ji, nơi nhà sư trụ rì cho gia nhập Hội Thiền Huynh Đệ. Năm 1926, ông lên đường thực hiện chuyến đi đầu tiên trong nhiều chuyến hành hương khất thực của mình kéo dài tới ba năm. Ông mặc áo cà-sa, độ mũ tre rộng vành che nắng và tay cầm chiếc bát xin ăn dọc đường. Đó là một phần quan trọng trong cách tu hành của các nhà sư Nhật Bản thời ấy. Qua các bài haiku và những đoạn nhật ký ông viết lúc đi khất thực, người đọc biết ông đã phải trải qua rất nhiều khó khăn, vất vả, đôi khi cả sự khinh bỉ của người đời. Năm 1936, ông bắt đầu chuyến đi theo lộ trình của nhà thơ haiku vĩ đại Bashô (1644 – 1694) và chỉ quay về sau tám tháng một mình lang thang xin ăn khắp nước. Cuối cùng ông vào sống trong một ngôi chùa nhỏ gần thành phố Matsuyama và qua đời khi đang ngủ, ngày 10 tháng 10 năm 1940, để lại bảy tập thơ haiku nổi tiếng được viết theo thể tự do không niêm luật. 1 Trời không mây Nhìn qua cốc rượu mạnh Trời thật sâu. 3 Vợ chồng cãi nhau Đêm Con nhện treo ngược. 4 Đường phố thật yên tĩnh Một hố lớn Đào trên bề mặt. 7 Mặt trời chói chang Chân bước đi Miệng xin ăn.. 9 Cơ thể này Còn sống Tôi gãi nó. 10 Phản chiếu Dưới nước Một người đi trên đường. 12 Đường chạy thẳng Về phía trước Tôi bước một mình. 13 Để con chuồn chuồn Đậu lên mũ Tôi đi tiếp. 14 Tôi tiếp tục đi Hoa huệ Tiếp tục nở. 15 Tôi trượt Ngã sầy chân Núi vẫn lặng im. 16 Chân sầy trợt Con chuồn chuồn Đậu lên. 23 Chiếc áo nhà sư của tôi Rách thế này đây... Những hạt cỏ. 24 Say mèm Tôi ngủ Cùng những con dế. 25 Ấm. Ai đó Đắp chiếc chiếu Lên người tôi. 32 Trong phòng tắm Đàn ông và đàn bà cãi nhau Về các bức ngăn. 40 Không còn nhà nào nữa Để gõ cửa xin ăn... Mây trên núi. 43 Trời không mưa Cũng chẳng sao... Nhưng trời mưa. 44 Nền đất lạnh, rất lạnh Kệ Tôi cứ giao thân tôi cho nó. 45 Tâm trạng ủ ê... Thì gột cái ủ ê ấy Bằng nước tắm. 52 Nấu một mình Ăn một mình Bát canh Năm Mới. 57 Mình tôi Nhóm lửa Cho mình tôi. 58 Trời mưa... Người đàn bà trên gác Huýt sáo một mình. 59 Mây lạnh Không hiểu sao Cứ bay đi vội vã. 60 Đi giữa trời mưa phùn... Phía sau Trông mình thế nào nhỉ? 62 Mưa đá Rơi gần đầy chiếc bát Tôi dùng để xin ăn. 70 Lủi thủi đi Giữa đường núi Lủi thủi nói chuyện một mình. 75 Nước in bóng cây Và bóng mây... Con mèo chết trôi qua. 76 Đâu đó Trong đầu tôi Con quạ đang kêu. 84 Cả kiến Cũng đi bộ Suốt ngày trên núi. 100 Suy cho cùng Một mình là tốt nhất... Cỏ dại. 102 Một ngày trời ấm Hơn thế Trên tay có cái ăn. 114 Chẳng còn gì nữa Ngoài cái chết... Núi lờ mờ trong sương. 122 Không muốn chết Không muốn sống... Gió thổi trên đầu. 133 Một cây ngã Chắn đường... Thì ngồi lên nó. 134 Cây măng Đang dần trở thành cây tre... Thế là tử tế. 143 Cú mèo theo cách cú mèo Tôi theo cách tôi Không ngủ được. Thái Bá Tân Dịch từ tiếng Anh
Posted on: Tue, 16 Jul 2013 01:49:31 +0000

Trending Topics



uma vida toda Algo que o vento vem

Recently Viewed Topics




© 2015