MỪNG LỄ QUAN THẦY BAN KÈN MI-CA-E, CA ĐOÀN SÊ-RA-PHIM - TopicsExpress



          

MỪNG LỄ QUAN THẦY BAN KÈN MI-CA-E, CA ĐOÀN SÊ-RA-PHIM 29/9 VÀ GA ĐOÀN TÊ-RÊ-SA 1/10 Thánh Micae - Tổng Lãnh Thiên Thần Nhân ngày kỷ niệm thánh hiến vương cung thánh đường kính thánh Micae, Giáo Hội mừng chung các Tổng Lãnh Thiên Thần Gabirie, Micae và Raphae do Thánh kinh cho biết. Các Đấng được mô tả như những vị thần linh được Thiên Chúa gửi đến, lấy hình hài người ta, để ban bố mệnh lệnh hay thực hiện sứ mạng. Micae, danh từ Hêbrô có nghĩa “Ai bằng Chúa” ám chỉ sự siêu việt của Thiên Chúa, được nói đến trong sách Đamien (10, 13-21) và trong sách Khải Huyền của Thánh Gioan (12,7) như vị chiến thắng ma qủi. Giáo Hội coi người là Đấng bảo trợ, được tôn kính từ xa xưa bên Đông phương. Tại Tây phương, nhiều cuộc hiển linh của thánh Micae càng làm cho việc sùng kính khởi sắc hơn, như tại núi Gargano miền nam nước Ý, dưới thời đức Gelase (192-196). Tại Pháp, thánh Thiên Thần là một thánh quan thầy, tuy việc hiện ra ở núi Mont-Saint-Michel không thể kiểm chứng được, nhưng nơi đây đã trở nên một vị trí hành hương lớn. Theo thánh nữ Jeanne d’Arc, Thánh Micae đã thúc dục Bà đi gặp vua Charles VII để lên đường đi cứu nước. Thánh Micae là quan thầy những người làm nghề phải dùng đến lò nung như người làm bánh; Thánh Thiên Thần cũng là quan thầy đoàn lính dù. Nhiều thành phố mang tên Người. Thánh Micae cũng được cầu khi giúp bệnh nhân sắp chết. Lễ nhớ: 29 tháng 9. Tổng Lãnh Thiên Thần Gabiriel Ba vị Thiên Thần được Giáo Hội mừng chung trong ngày kỷ niệm lễ thánh hiến vương cung thánh đường Thánh Micae ở Lamã: đó là các tổng lãnh Thiên Thần Gabirie, Micae và Raphae do Thánh kinh cho chúng ta biết, như những vị thiêng liêng được Chúa gửi đến dưới hình người ta để thi hành một số mệnh lệnh. Gabirie, danh xưng Hêbrô có nghĩa là “Thiên Chúa là sức mạnh” được gửi đến để báo tin Thiên Chúa can thiệp vào việc cứu rỗi nhân loại và đấng Messia sẽ đến thực hiện. Gabirie được gửi đến với ngôn sứ Danien (Dn 8, 16;9,21-27), với ông Giacaria và Đức Mẹ (Lc 1,11-38;8,16-27;9,21-27). Việc tôn sùng thánh Gabirie nổi bật vào thế kỷ X. Năm 1951, đức Piô XII đặt làm quan thầy các chuyên viên truyền thông (truyền thanh, truyền hình, điện thoại). Lễ nhớ: 29 thánh 9. Tổng Lãnh Thiên Thần Raphael Cùng được mừng chung nhân ngày kỷ niệm cung hiến Đền Thờ Thánh Micae ở Lamã, ba vị tổng lãnh Thiên Thần Gabriel, Micae và Raphael, những vị mà chúng ta biết qua Thánh Kinh. Các Ngài là những vị thiên sai do Thiên Chúa gửi đến, dưới hình tượng con người để loan báo những mệnh lệnh hoặc để thi hành một số nhiệm vụ. Danh xưng Raphael tiếng Hêbrô có nghĩa là “Thiên Chúa chữa lành.” Sách Tobia, mô tã người là hướng dẫn viên ông Tobia con và đã làm cho Tobia Cha khỏi mù mắt. Người liền cho hai cha con biết: “Ta là Raphael, một trong bảy khâm sai của Thiên Chúa hằng ở bên cạnh Ngài trong huy hoàng của Ngài hiện diện.” Mục đích của câu chuyện là để minh chứng sự Thiên Chúa quan phòng hằng hoạt động trong đời con người và hằng nghe lời cầu xin. Raphael được cầu xin cho thể xác khang an, linh hồn khõe mạnh và là quan thầy người đi đường. Seraphim (xê – ra – phim): Các thiên thần seraphim được nhắc đến trong sách tiên tri I sai a 6:1-7 “Phía bên trên Người, có các thần Xê ra phim đứng chầu.” các thần sêraphim chúc tụng vinh quang Chúa và chính một vị trong các thần ấy đã thanh tẩy môi miệng ngôn sứ Isaia trong thị kiến đầu tiên. Các Seraphim được xếp bậc cao nhất trong tất cả thiên thần trên trời, họ là những thiên thần trông coi toà Chúa. Các Seraphim bay lươn xung quanh toà Chúa và không ngừng tung hô: “ Thánh, Thánh, Thánh, Đức Chúa các đạo binh là Đấng Thánh, cả mặt đất rạng ngời vinh quang Chúa”. Seraphim có nghĩa là rực cháy “ the buring ones”. Theo như một số sách thì, có tất cả 4 Seraphim, họ bay xung quanh toà Chúa. Nhưng chỉ có 2 Seraphim được nhắc đến tên đó là Seraphiel và Metatron. Còn về hình dáng của các Seraphim, các thiên thần này có 6 cánh, 2 cánh để che mặt, 2 cánh để che chân, và 2 cánh để bay, riêng Seraphiel, thì được miêu tả với đầu của phượng hoàng. Tương truyền rằng, các thiên thần Seraphim lúc nào cũng cháy sáng, và ánh sáng phát ra từ họ sáng đến nỗi không một ai hay thậm chí là các bậc thiên thần khác có thể nhìn trực tiếp được. Ngày 01-10: Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu T5, 30/09/2010 - 18:57 Ngày 1 tháng 10 Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu (1873 - 1897) Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu sinh ngày 2 tháng giêng năm 1873 tại Alencon, nước Pháp. Ngài là con thứ chín của hai ông bà Louis Martin và Xélie Guérin. Trước kia, hai ông bà đã có ý nguyện dâng mình phụng sự Chúa trong tu viện mà không thành. Bù lại, năm người con còn sống đều đã hiến thân theo đời sống tu trì. Khi sinh ra Têrêsa, mẹ Ngài đã nói: - Tôi chỉ ao ước có nhiều con để dẫn chúng về trời. Nhưng khi mới lên bốn, Têrêsa đã mất mẹ, bà mất vì căn bệnh ung thư. Nhưng sự dịu hiền của người cha đã bao bọc thánh nữ suốt quãng thời thơ ấu. Một buổi chiều, níu tay cha, Têrêsa chỉ lên trời mà nói: - Cha ơi ! xem kìa, tên con đã được viết trên trời. Dù còn nhỏ, từ tuổi lên ba, ngài nhớ rằng mình đã không từ chối Chúa điều gì. Ngài đã cố sửa tính cứng dầu, ích kỷ và hay thay đổi. Lúc lên mười, ngài ngã bệnh nặng. Nhưng ngài đã thấy tượng Đức Trinh Nữ mỉm cười với mình và cơn bệnh biến mất. Têrêsa luôn nghĩ tới những sự trên trời, ngài nói rằng: Chúa Giêsu đã chết trên Thánh Giá để cứu rỗi các linh hồn, nhưng thật đáng buồn khi có rất nhiều người không đáp lại lời mời gọi của Chúa. Bởi thế, thánh nữ đã cầu nguyện và thống hối để đưa các linh hồn về trời. Có một kẻ cướp tên là Pranzini bị kết án tử hình. Thánh nữ đã tự ý cầu nguyện cho hắn được ơn hối cải. Ngài còn xin một dấu chỉ chứng tỏ hắn hối cải. Và rồi, tên cướp đã từng từ chối sự giúp đỡ của linh mục, lúc lên đoạn đầu đài, bỗng quay nhìn Thánh Giá và hôn ba lần. Từ nhỏ đã quyết nên thánh, Têrêsa muốn được sớm tận hiến cho Chúa. Mười lăm tuổi, ngài đã ước ao được gia nhập dòng kín. Không được phép, ngài hành hương đi Rôma để xin phép Đức Giáo Hoàng, Đức Leo XIII đã chỉ trả lời: - Nếu Chúa muốn. Đức Giám mục Bayyeux đã cho phép ngài vào dòng ngay. Nơi đây, đã có ba người chị của Ngài. Nhận được tên Têrêsa của Chúa Giêsu Hài Đồng, ngài thêm và của Thánh Nhân. Ngày khấn dòng, ngài cầu nguyện: - Ôi Chúa Giêsu, con xin ơn bình an và tình yêu vô bờ bến. Xin cho con được tử đạo trong lòng hay nơi thân xác, hay tốt hơn, được tử đạo cả hai. Chính nhờ “đường con thơ tin tưởng và phó thác” mà thánh nữ đạt đến tuyệt đỉnh thánh thiện và hoàn tất ơn gọi sống tình yêu và đau khổ, ngài đã: - Quyết không bỏ qua một hy sinh nhỏ bé nào. Ngài đã chịu bề trên hiểu lầm và đối xử một cách nghiêm khắc, chịu giá lạnh và hy sinh liên tục, ngài bị trách mắng bất công, bị thử thách đủ loại, mà chỉ đáp lại bằng nụ cười. Người ta chỉ gặp thấy nơi ngài thứ sánh sáng an bình và không thể đoán biết nổi những đau khổ mà dường như ngài muốn dấu cả Chúa nữa: - Con cố gắng mỉm cười khi phải đau khổ... để Chúa nhân lành như bị lừa bởi dáng vẻ bề ngoài, cũng không biết rằng: con phải đau khổ nữa. Lạnh lẽo ngài không chà tay, đau chân ngài chú ý kẻo chân đi khập khiễng, Ngài âm thầm thực hiện những việc giúp đỡ phiền hà nhất. Một chị bạn làm bể chiếc bình, nhưng ngài bị la rầy mà ngài vẫn cúi đầu nhận lỗi. Một chị bạn đã găm kim vào da thịt ngài khi giúp ngài đội khăn mà ngài vẫn cám ơn không hề kêu trách. Một nữ tu già kỳ chướng cần được sự giúp đỡ, Têrêsa tận tụy phục vụ bà và chỉ mỉm cười đáp lại những phiền trách của bà. Người ta hỏi ngài: - Chị nói thế nào là ở như một trẻ thơ trước mặt Chúa? Ngài trả lời: - Là khiêm tốn đón chờ mọi sự bởi Chúa nhân lành, như một trẻ thơ chờ đón tất cả bởi tay cha nó. Mọi sự khác chẳng quan hệ gì. Thật viển vông khi muốn vài chục người chung quanh quí chuộng. Tôi chỉ mong được yêu thương ở trên trời bởi vì chỉ ở trên đó mới hoàn hảo mà thôi. Ngài không đòi được soi sáng nữa, khiêm tốn và phó thác, ngài tin rằng: - Tôi không mơ ước được thấy Chúa và các thánh của Ngài như nhiều người khác ao ước được nhìn thấy và thấu hiểu mọi sự, mà chỉ muốn ở lại trong cuộc sống đức tin. Giáo thuyết rất đơn sơ, nhưng sâu sắc của ngài được nuôi dưỡng không ngừng bằng những suy ngắm và được trình bày trong cuốn "Một tâm hồn" . Chị ngài, mẹ Anê thời đó, đã truyền cho ngài viết lại những ký ức này. Sợ rằng việc này “làm phân tâm”, nhưng vì vâng lời ngài đã thực hiện. Thế là, chúng ta có được một sứ điệp khôn sánh về đức khiêm hạ, sức mạnh tình yêu và phó thác. Con người muốn bé nhỏ ấy lại có những ước muốn vô cùng. - Con thấy mình có ơn gọi làm chiến sĩ, làm linh mục, làm tông đồ, làm tiến sĩ và chịu tử đạo. Và ngài lại chỉ thực hiện những hy sinh nhỏ, được biến nên trong sáng bởi tình yêu đại độ. - Một phương thế để nên trọn lành ư? Con chỉ biết có tình yêu. Tháng 6 năm 1894, có triệu chứng đầu tiên thánh nữ bị bệnh lao. Dầy vậy, ngài vẫn tiếp tục các bổn phận và không tìm cách giảm bớt một công tác nào. Không hiểu biết, người ta trách ngài biếng nhác. Hơn nữa, ngài còn bị thử thách nặng nề trong tâm hồn. Ngập chìm trong tăm tối, ngài như bị mất đức tin, nhưng vẫn dũng cảm trung thành với Chúa. Khi người ta mang đến một ly thuốc đỏ, đẹp, ngài nói: - Ly thuốc nhỏ này, người ta tưởng là đầy rượu ngon, thực sự chưa bao giờ tôi đã phải uống một thứ thuốc nào đắng hơn. Đó là hình ảnh đời tôi. Dưới mắt người khác nó đầy màu sắc vui mắt, người ta tưởng tôi uống một thứ rượu ngon ngọt, nhưng thực sự nó là thuốc đắng. Sau những đau đớn dữ dằn, ngài nói: - Con không hối hận vì đã hiến mình cho tình yêu. Khi sắp từ trần, ngài hứa: - Trên trời con sẽ làm mưa hoa hồng xuống. Ngày 30 tháng 9 năm 1897, ngài qua đời tại phòng bệnh dòng kín Lisieux. Ngày 17 tháng 5 năm 1925, ngài được tôn vinh lên hàng các Thánh. Vào ngày 19-10-1997, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II tuyên xưng ngài là Tiến Sĩ Hội Thánh, là người phụ nữ thứ ba trong Giáo Hội được công nhận về sự thánh thiện và về ảnh hưởng tinh thần của những gì ngài viết.
Posted on: Sat, 28 Sep 2013 10:24:02 +0000

Trending Topics



Recently Viewed Topics




© 2015