" Thế Tôn 53 Thế tôn (Bhagava) là một danh từ có - TopicsExpress



          

" Thế Tôn 53 Thế tôn (Bhagava) là một danh từ có nghĩa kính trọng tôn sùng gán cho Ngài, được xem như cao cả nhất trong các chúng sanh, và nổi bật vì những đức tính đặc biệt. Cổ đức có nói: "Thế tôn là danh từ tốt nhất Thế tôn là danh từ hay nhất Ðáng uý phục và tôn kính Thế tôn do đó là tên của Ngài". 54. Hoặc giải thích: Tên có bốn loại: ám chỉ giai đoạn của cuộc đời, mô tả một điểm đặc biết hoặc được khởi lên một cách tình cờ một sở đắc đặc biệt. Loại tên sau rốt này, theo thế gian thì gọi là ngẫu hứng. Ở đây, tên chỉ một giai đoạn là người danh từ như "bò tơ" (vaccha), "trâu chưa thuần" (damua), "bò kéo cày" (balivadha) v.v... Tên ám chỉ một đặc điểm như những danh từ "người mang gậy" (dandin), "người che dù" (chanttin), "người mang búi tóc" (sikhin) "kẻ có tay" (karin- con voi), v.v... Tên có ý nghĩa một sở đắc đặc biệt là những danh từ như " người có ba minh" (tevijja) "người có sáu thông" (chalabhinna), v.v... Còn những tên như "sirivaddhaka" (Người tăng vẻ sáng chói) "Dhanavadđhaka" (người tăng tài sản) v.v... là những tên khởi lên một cách tình cờ, chúng không có tương ứng với ý nghĩa của danh từ. 55. Tên gọi này, Thế Tôn, là môt danh từ có ý nghĩa một sở đắc đặc biệt; nó không được tạo bởi hoàng hậu Màya hay vua Suddhodhana hay bởi tám mươi ngàn quyến thuộc, hay bởi những vị trời đặc biệt như sakka, Santusita, và những vị khác. Và bậc Tướng quân chánh pháp (sàriputta) nói như sau "Thế Tôn" Ở đây không phải cái tên do mẹ đặt ra. Ðây là một tên phát xuất từ sự giải thoát rốt ráo của những đấng giác ngộ, những đấng Thế tôn, cùng với sự đạt được chánh biến tri dưới cội bồ đề; cái tên gọi Thế tôn "này là một danh xưng dựa trên sự chứng đạt". (Ps. i, 174; Nd1. 143). 56. Ðể giải thích những đức tính đặc biệt mà danh xưng này ám chỉ, đoạn kệ sau đây được trích dẫn: Ðấng đạo sư (garu) có phước, lạc (bhagì: blessing); Ngài là người thường lui tới (bhàjì), Người sở hữu (bhàgì) Những gì được phân tích (vibhattavà); Ngài đã tạo ra sự từ bỏ (bhaggga), Ngài là người may mắn (bhàgyavà) Ngài đã phát triển toàn vẹn (subhàtitattane) trong nhiều cách Ngài đã đi đến tận cùng của các hữu (bhavantago); nên Ngài được gọi là Thế tôn (bhagavà) Ý nghĩa những danh từ này cần được hiểu theo phương pháp giải thích trong Niddesa, (Nd1., 142) 57. Nhưng còn một cách khác: "Ngài là người may mắn (bhagyavà), có được sự từ bỏ (bhaggavà), liên hệ đến hạnh phúc (yuttobhagohi), một người sở hữu những gì đã được phân tích (vibbattavà) "Người đã lui tới (bhattavà) "Ngài đã lui được phân tích (vibbattavà) và đã từ bỏ sự đi vào những cõi hữu, nên ngài là Thế tôn". 58. Ở đây bằng cách sử dụng đặc tính của ngôn ngữ khởi đầu là những ví dụ "phát triển hình thức, thay đổi hình thức" hoặc bằng cách sử dụng đặc tính "định tính" khởi đầu bằng những ví dụ "có bụng màu lốm đốm" v.v... (xem Pànini, Ganapàtha, 6, 3, 109), có thể rằng Ngài cũng có thể được gọi là Thế tôn (Bhagava) khi đã được gọi là May mắn (bhàgya) đạt đến toàn thiện về Thí và Giới, v.v... là những điều kiện phát sinh phúc lạc thế gian và xuất thế gian. 59. Tương tự như vậy, Ngài có thể được gọi là bhagavà vì Ngài đã được gọi là "có sự từ bỏ" (bhaggavà) do những đe dọa (abhanji) cả trăm ngàn thứ phiền não, lo lắng và ô nhiễm được phân loại thành tham, sân si, thất niệm, vô tàm vô quý, phẫn hận, khinh bỉ và thống trị, ganh tị, và tham lam, lừa dối và gian lận, cứng đầu và tự kiêu, ngã mạn và cao ngạo, khoe khoang và lơ đễnh, khát ái, và ngu si, ba bất thiện căn các loại tà hạnh, ô nhiễm, cấu uế, ảo tưởng, tầm tư duy và những phân biệt, bốn điên đảo, lậu hoặc, triền cái, bộc lưu, hệ phược, thói xấu, khát ái, chấp thủ, năm tâm hoang vu, tâm ách phược, những triền cái và những loại ưa thích, sáu căn và những nhóm khát ái, mười bất thiện nghiệp, 62 tà kiến, 108 lối cư xử thuộc về tham ái, nói tóm lại là năm thứ ma phiền não, ma ngũ ấm, ma hành nghiệp, thiên ma và tử ma. Từ bỏ (bhagga) tham sân si Ngài không còn lậu hoặc, Ác pháp được tận trừ "Thế tôn" xứng tên gọi. 60. Sự may mắn hạnh phúc của Ngài (bhàgyavata) được chứng tỏ bằng sắc thân đủ trăm công đức, và sự tận trừ các lỗi được chứng tỏ bởi tính cách toàn vẹn của pháp thân Ngài. Hạnh phúc của ngài chỉ sự tôn trọng của thế gian, sự dứt trừ lậu hoặc nơi ngài chỉ sự tôn trọng của những bậc giống như Ngài. Thân hạnh phúc của Ngài được tin cậy của người thế tục, sự từ bỏ lỗi lầm đáng được tin cậy của người xuất gia. Và khi cả hai hạng người này nương tựa nơi Ngài, thì chúng được cứu vớt khỏi thân khổ và tâm khổ, được cứu giúp bằng tài thí lẫn pháp thí, chúng có thể tìm được cả hai thứ phúc lạc thế gian và xuất thế gian. 61. Ngài cũng được gọi là bhàgavà (Thế tôn) vì Ngài liên hệ đến hạnh phúc (bhagohi yuttattà): trong đời, danh từ hạnh phúc được dùng để chỉ sáu thứ là sự làm chủ, pháp, danh tiếng, sáng chói, nguyện, tinh tấn. Ngài đã đạt được sự làm chủ tối thượng trên tâm của Ngài. Ngài có đầy đủ pháp thế gian là các thần thông "hiện thân hình thật nhỏ" (animà: như vi trần), "làm thân nhẹ bổng" (laghima: làm thân nhẹ đi trên hư không) v.v... Cũng như pháp xuất thế, ngài lại có danh tiếng hoàn toàn thanh tịnh được lan truyền khắp ba cõi. Ngài có vẻ sáng chói của tứ chi, toàn vẹn trong mọi vẻ trong mọi vẻ, có thể làm đẹp mắt những người ưa nhìn thấy sắc thân của Ngài. Ngài có nguyện, nghĩa là phát sinh những thứ cần dùng, bất cứ gì Ngài cần đến và mong ước để tự lợi và lợi tha đều được phát sinh ngay tại chỗ tức khắc cho Ngài dùng. Ngài có sự tinh tấn, nghĩa là chánh tinh tấn, lý do làm cho toàn thể thế gian tôn sùng Ngài. 62. Ngài còn được gọi là bhagavà vì Ngài là đấng "sở hữu những gì đã được phân tích" (vibhattàvà), như Ngài đã phân tích và thuyết minh các pháp thành ba loại là thiện ác, và vô ký v.v... Hoặc phân tích các pháp thiện, v.v... Thành ra những pháp như uẩn, xứ, giới, đế (chân lý), căn, duyên khởi v.v... Hoặc phân tích khổ đế thành những nghĩa như bức bách, hữu vi, đốt cháy, thay đổi. Tập đế thành những nghĩa tích luỹ, nguồn gốc, trói buộc, chướng ngại. Diệt đế thành những nghĩa giải thoát, viễn ly, vô vi, bất tử, và Ðạo đế thành những nghĩa lối ra, nguyên nhân thấy rõ, và sự ưu thắng. Ngài đã phân tích, đã khai thị, đã chỉ ra những ý nghĩa ấy. 63. Ngài có thể được gọi là bhagavà (Thế Tôn) vì Ngài được gọi là đấng "đã từ bỏ sự đi vào các loại hữu" (vantagamano bhavesu), vì đối với ba loại hữu (bhava), sự đi vào (gamana) hay nói cách khác, sự khát ái đã được Ngài từ bỏ (vanta). Âm bha từ chữ bhava, âm ga từ chữ gamana, và âm va từ chữ gamana, và âm va từ chữ vanta với chữ a dài ra, làm thành bhagavà. 64. Ngài có thể được gọi là bhagavà (Thế Tôn) khi Ngài được gọi là một người "đã lui tới (bhattavà)" do Ngài đã lui tới (bhaji), đã thân cận, đã thường xuyên thực hành những pháp thế gian và xuất thế gian, siêu nhân, như ba trú là thiên trú, phạm trú và thánh trú; ba thứ viễn ly là thân viễn ly, tâm viễn ly, và hữu viễn ly; ba giải thoát là không vô tướng, vô nguyện, và những thứ khác nữa. [Ba trú là "thiên trú" kasina thiền, "phạm trú": tứ thiền v.v... "thánh trú"; đắc quả. Về ba thứ viễn ly, xem Ch. IV, phần chú thích]"
Posted on: Wed, 07 Aug 2013 10:55:35 +0000

Trending Topics



Recently Viewed Topics




© 2015