LỜI MỞ ĐẦU CỦA DÒNG THƠ Sau một đoạn hùng hồn - TopicsExpress



          

LỜI MỞ ĐẦU CỦA DÒNG THƠ Sau một đoạn hùng hồn được thâu lại và phát ra trên mạng, theo đúng nghĩa của tục ngữ: 'Giặc đến nhà đàn bà phải đánh', Nhất Tâm tôi liên tưởng ngay đến Sử-thần Lê Văn Hưu vào đời nhà Trần, và Sử-thần Ngô Sĩ Liên ở thời Hậu Lê, hai vị Sử-thần còn để lại TIÊNG VỌNG CỦA HỒN SỬ, như sau: 'Trưng Trắc, Trưng Nhì là đàn bà, hô một tiếng mà các quận Cữu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố cùng 65 thành ở Lĩnh ngoại đều hưởng ứng, việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay, có thể thấy hình thể đất Việt ta đủ dựng nghiệp bá vương, tiếc rằng, sau họ Triệu (tức Triệu Thị Trinh -vnt) cho đến trước họ Ngô, trong khoàng hơn nghìn năm, bọn đàn ông chỉ cúi đầu bó tay, làm tôi tớ cho người phương Bắc, há chẳng xấu hổ với hai chị em họ Trưng là đàn bà hay sao? Ôi! Có thể tự gọi là vứt bỏ mình vậy.' (Sử-thần Lê Văn Hưu) "Họ Trưng giận thái thú nhà Hán bạo ngược, vung tay hô một tiếng mà quốc thống nước ta cơ hồ được khôi phục, khí khái anh hùng há chỉ lúc sống dựng nước xưng vương, mà sau khi chết còn có thể chống ngăn tai họa. Còn gặp những việc tai ương, hạn lụt, đến cầu đảo không việc gì là không linh ứng. Cả bà Trưng em cũng thế. Vì là đàn bà mà có đức hạnh kẻ sĩ, cái khí hùng dũng trong khoảng trời đất không vì thân chết mà kém đi. Bọn đại trượng phu há chẳng nên nuôi lấy cái khí phách cương trực chính đại ấy ư?' (Sử-thần Ngô Sĩ Liên) (Trích từ 'Đại Việt Sử Ký Toàn Thư' Tập I, trang 157 và 158). Nhất Tâm tôi viết dòng thơ với tất cả tấm lòng trân trọng và ca ngợi tình thần của dòng con cháu bất khuất qua từng triệu đại xâm lược Nước Nam của triều Hán nói riêng, và phương Bắc nói chung. Tiêu biểu trong thời đô hộ bằng bạo lực từ Tiền Hán (Tây Hán) bước sang thời Đông Hán (Hậu Hán) là hai Bà Trưng; đến thời Đông Ngô (thuộc Tam-quốc bên Tàu) là Bà Triệu; Đại-đế Ngô Quyền (trong thời Nam Hán bên Tàu, mà sử gọi là thời Ngũ-đại); Hoàng-đế Lê Đại Hành trong thơi nhà Tống bên Tàu; Tể -phụ Lý Thường Kiệt cũng thời cuối của nhà Tống; Đức-thánh Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, ở thời Mông Cổ, tức Thành Cát Tư Hãn từng làm rúng động Á Âu, và ba lần sang xâm lược Đại Việt; Đại-đế Quang Trung Nguyễn Huệ, với cuộc chiến thần tốc trong bảy ngày đuổi Mãn Thanh giành lại thành Thăng Long, đối với thực dân phương Bác nói chung. Chưa hết, sau khi Chúa Nguyễn Ánh tranh dành ngôi vương với đời sau của Đại-đế Quang Trung Nguyễn Huệ, khi Ngài khuất núi, và chúa Nguyễn Ánh từng nhờ Pháp qua trung gian Giám-mục Bá-đa-lộc, tuy không thành nhưng chính Giám-mục Bá-đa-lộc giúp bằng cách cho chúa Nguyễn Ánh, để san bằng triều đại Nguyễn Tây Sơn, và thay vào đó là triều đại Nguyễn Gia Miêu. Và nhân thể, Nhất Tâm tôi xin khẳng định một cách quyết đoán, dựa theo lịch sử về cuộc nội chiến, kéo dải hơn hai thế kỷ (1533-1802). Có nghĩa là tính từ khi ông Nguyễn Kim, cha Nguyễn Hoàng, mà sử của triều Nguyễn Gia Miêu gọi truy tôn là Thái-tổ Nguyễn Kim; khởi đầu mà sử (triều Nguyễn Gia Miêu) gọi là thời Lê Trung-hưng, tạo nên cuộc nội chiến giữa Nam và Bắc triều (Mạc và Lê); cho đến nạn 'Trịnh Nguyễn Phân Tranh" Chúng ta, thử xét lại từng nét chính trải qua thời nội chiến, sử gọi là 'thống nhất' đất nước: Vậy giả sử rằng; không có Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ ra đời, thực hiện cuộc bình Nam và chỉnh Bắc; lúc Trương Phúc Loan là tên gian thần trong thời chúa Định-vương Nguyễn Phúc Thuần, và kế nghiệp là chúa Nguyễn phúc Ánh, trên dưới một thập niên, để xóa bỏ sông Gianh, nối liền Nam Bắc, thì chúa Nguyễn phúc Ánh có thể thống nhất được giang sơn hay ngược lại? Sở dĩ, Nhất Tâm tôi xin nêu ra những khúc quanh then chốt nhất của sử Việt cho nền độc lập lãnh thổ và chú quyền quốc gia, đồng thơi lên án và khẳng định về tội phản quốc của HCM và đảng cộng sản, hoàn toàn không thể nào người cầm bút viết sử vì quốc gia dân tộc, có thể gọi cuộc chiến xâm lăng từ sau Quốc Nạn 20.07.1954 đến 30.04.1975 là cuộc nội chiến được cả. Chúng ta đem lương tri làm người Việt Nam, là dân tộc có một truyền thống đấu tranh lâu dài và thoát ra khỏi ách thống trị thực dân phương Bắc (Hán, Mông, Mãn) trên dưới 2000 năm. Và thực dân phương Tây (Pháp) gần một 100 năm. Và tiếp theo là chống xâm lăng của thực dân Cộng sản (Nga, Tàu trong chiến lược mới của các nước lớn), mà chúng ta có thể xác định điểm đứng của HCM và đảng cộng sản Hà Nội, là Bộ-phận Ngoại-tộc: Di-sản của Marx và Angel về mặt chiến lược (hay gọi theo tinh thần quốc gia và dân tộc của mỗi nước là Ngụy thuyết Marx và Angel). Mặt chiến thuật là phương thức hành động của Lenin như sau: 1) Vô Tổ-quốc 2) Vô Gia-đình 3) Vô Tôn-giáo Còn về mặt quân sự do Nga và Tàu đeo đuổi một cuộc tranh hùng đối với Mỹ cùng khối Tâu Âu, hay nói một cách rỏ hơn là cuộc tranh dành thị trường, vì lợi ích của ba nước lớn (Nga, Tàu, Mỹ). Một lần nữa, để xác định về vai trò HCM và đảng cộng sản Hà Nội chỉ là con cờ thí của khối cộng sản Tàu Nga để đối đầu với Mỹ, để xâm lăng Miền Nam Tự Do của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, không hơn không kém. Nhất Tâm tôi mạo muội viết dòng thơ với một tấm lòng cảm kích và ca ngợi tinh thần đấu tranh của giới trẻ Thanh Sinh (Thanh-niên Sinh-viên Học-sinh) trong nước xin được tiêu biểu: Sinh-viên Nguyễn Phương Uyên; Đỗ Thị Minh Hạnh;Tạ Phong Tần; Phạm Thanh Nghiên; Bùi Thị Minh Hằng; Huỳnh Thục Vy; Sinh-viên Đinh Nguyên Kha; Việt Khang; Trần Vũ An Bình; Đoàn Huy Chương; Nguyễn Hoàng Quốc Hùng; Nguyễn Văn Hải. Là những người tiếp bước Tiên nhân chống thực dân Cộng sản đang đô hộ dân tộc của HCM và đảng Việt gian cộng sản Hà Nội qua sự khống chế và trực tiếp của đảng cộng sản Tàu, tức là Hán cộng. Và Nhất Tâm tôi trong khoảng thời gian bươc chân vào từ Blogger, sang Blogspost và bước Cộng-đồng Facebook, đã quên thân kết bạn và cũng hết lòng cảm kích giới trẻ thuộc thế hệ thứ hai của làn sóng Tỵ-nạn sau Quốc Nam 30.04.1975, đã có lĩnh hội tình thần đấu tranh của lớp người đi trước thuộc thế hệ cha anh, cô chú bác: Tiêu biểu như Lê Kim Anh; Lý Bích Thủy; Nguyễn Thị Hông; Võ Thị Linh; Lê Bích Tuyền; Nguyễn Thùy Linh; Áo Trang Cờ Vàng; Lệ Tha Phương; Nguyễn Chiều Tím... Nhất Tâm tôi xin trân trọng chia sẻ với dòng thơ sau đây: TIẾNG DÂN Muôn dân chịu nỗi đoạn trường Do bầy cộng sản chính phường thục dân Rước Tàu dẫm lại vết chân Ngàn năm Bắc thuộc: Màu tang bao trùm. TIẾNG DÂN thay cả QUỐC HỒN Hồi chuông tình thức - non sông Hồng Bàng: Nhìn kia biển đảo, Nam Quan Tây Nguyên - rừng núi đã dâng cho Tàu. Hoàng Trường Sa, sóng mãi gào Biên cương rừng núi - biển dâu khôn lường. Rành rành, cộng đảng một phường Buôn dân, bán nước lót đường cho Ngô. @ Vạn thu riêng một cơ đồ Từng trang hùng sử - cõi bờ vinh quang Qua bao thời đại vững vàng, Rõ ràng Quốc-đạo: Hồng Bàng, sử ghi Từ ngày mệnh nước suy vi Cắt đôi Nam Bắc - làm tay sai Tàu. (Nào là thỉnh Mác, rước Mao) Đủ trò dối trá, dìm sâu giống nòi. Trải qua từng chặng - một thời Nồi da xáo thịt: Mấy đời tóc tang Đừng lầm: 'Nội chiến' hàm oan Bộ-phận Ngoại-tộc do đàn sói lang... Nhìn lịch sử chớ bàng quan Chạy theo bao lực, lợi danh hại nòi. Nghiệm xem: Lý Thụy học đòi Khởi đầu độc ác làm tôi hại người. Vạn trang sách viết rõ rồi Lừa Thầy, phản Bạn: Đủ lời mánh mung Rước di sản - đổi non sông Công tâm mà xét: Gian hùng khác chi! Nhìn chung vận nước suy vi Xin đừng vọng ngoại, quên đi Quốc Hồn! Chình danh truyền thống giống dòng Đáp lời sông núi: Một lòng cùng đi... Vĩnh Nhất Tâm 07.09.2013
Posted on: Sat, 07 Sep 2013 23:47:57 +0000

Trending Topics



Recently Viewed Topics




© 2015