Vai trò của vacxin trong sức khỏe của heo Sự toàn - TopicsExpress



          

Vai trò của vacxin trong sức khỏe của heo Sự toàn cầu hóa và yêu cầu cải thiện chất lượng thịt thông qua di truyền đóng vai trò chính trong lan truyền bệnh. Ví dụ: Heo sống và tinh heo đã làm lan truyền các bệnh gây suy giảm miễn dịch như PRRS. Tất cả những thay đổi đó dẫn đến áp lực bệnh tăng lên và sự cải tiến trong phương thức sản xuất nhằm giảm thiểu khả năng lây lan của mầm bệnh. Ví dụ: Phương thức “cùng vào cùng ra”, phương thức nuôi cách ly theo giai đoạn. Tuy nhiên, những thay đổi đó cũng tạo áp lực lên việc sử dụng thuốc (đặc biệt là kháng sinh) vì sự kiểm soát đề kháng được xem là vấn đề chính ở nhiều khu vực. Sự phát triển của các loại vaccin đã giúp nâng cao biện pháp quản lý dịch bệnh. Vai trò của thuốc Kháng sinh vẫn được sử dụng rộng rãi nhưng đang gây ra tranh cãi lớn. Trước đây, khi kháng sinh bị đề kháng, chúng ta có thể chuyển sang loại kháng sinh mới và tiếp tục sử dụng chúng cho đến khi chúng bị đề kháng. Ngày nay, mọi việc đang thay đổi, có ít hay thậm chí không có kháng sinh mới trong tương lai. Trong những năm gần đây, có nhiều thay đổi trong sử dụng kháng sinh. Từ năm 2006, kháng sinh kích thích tăng trưởng (GPs) đã bị cấm hoàn toàn trong thức ăn gia súc. Lệnh cấm các kháng sinh tăng trưởng bắt đầu từ 1999 do có liên quan đến kháng sinh trên người. Ví dụ: Avoparcin (vancomycin trên người), Virginiamycin (dalfopristin-quinupristin), Tylosin (erythromycin). Từ đó các kháng sinh sử dụng trong điều trị tăng lên, chủ yếu là Tetracyclin và Tylosin. Việc cấm các kháng sinh như Carbadox, Olaquindox, Salinomycin trong phòng ngừa bệnh hồng lỵ và các bệnh đường ruột khác đã làm tăng áp lực lên các kháng sinh điều trị còn lại như: Tiamulin, Valnemulin, Lincomycin, Tylosin. Điều này đã mở ra tranh luận về một số loại kháng sinh bị đề kháng trên người bắt nguồn từ động vật. Kháng sinh nhóm Fluoroquinolones cũng đang được xem xét. Các Enzyme chống lại nhóm kháng sinh Beta-lactam phổ rộng đã được tìm thấy ở vi khuẩn G như Escherichia coli vi khuẩn này cũng đề kháng lại kháng sinh nhóm Cephalosporin thế hệ thứ 3 và 4 và là mối lo ngại tiềm ẩn đến con người vì các gen của chúng có thể truyền qua Plasmid. Kháng sinh nhóm Fluoroquinolones (đường uống) đã được xem xét lại tại Mỹ và cấm sử dụng trên gà. Tuy nhiên gần đây, chúng được cho phép sử dụng theo đường chích trên heo nhưng chúng vẫn chưa được sử dụng ở các trang trại chăn nuôi ở Úc. Tại Mỹ, kháng sinh sử dụng đã không được phép sử dụng cho mục đích kích thích tăng trưởng và phòng bệnh. Một số nước châu Âu đã đưa ra một số biện pháp kiểm soát trong việc kê toa và phân phối các kháng sinh trên heo (Đan Mạch, Hà Lan). Ngoài ra, Hà Lan đã yêu cầu giảm 50% lượng kháng sinh sử dụng cùng với ngừng sử dụng kháng sinh trong thức ăn. Còn ở Trung Quốc, sự đề kháng đối với kháng sinh vẫn là một vấn đề lớn đặc biệt liên quan đến nhóm Fluoroquinolones và Aminoglycosides. Khả năng lây truyền sự đề kháng của vi khuẩn với kháng sinh từ heo sang người tương đối thấp nếu thịt heo được nấu chín. Xử lý quầy thịt bằng hơi nước nóng sẽ làm giảm mạnh sự lây nhiễm bề mặt đồng thời giảm nguy cơ truyền lây Salmonella, đồng thời cũng làm giảm sự lây truyền tiềm ẩn sự đề kháng với kháng sinh. Tuy nhiên khả năng này có thể xảy đến với những người làm việc trong nhà máy chế biến hay giết mổ. Sức khỏe đàn heo tốt là yếu tố quan trọng nhưng nếu không thực hiện an toàn sinh học và biện pháp cách li thì trang trại có thể bị ảnh hưởng lớn bởi các dịch bệnh địa phương. Heo sạch bệnh, có sức khỏe tốt, có thể giúp làm giảm mạnh số lượng kháng sinh sử dụng. Việc loại trừ bệnh do Mycoplasma và hồng lỵ là có thể thực hiện được. Ngược lại, rất khó loại trừ Actinobacillus pleuropneumoniae và Streptococcus suis vì heo con đã bị lây nhiễm từ mẹ ở tuần tuổi đầu tiên. Để phòng ngừa khả năng tái nhiễm bệnh, cần phải mua heo có nguồn gốc rõ ràng và áp dụng biện pháp cách ly. Vai trò của vaccin Trong vài thập kỷ vừa qua, vaccin đã có những bước phát triển mạnh. Vaccin PCV2 với kỹ thuật tái tổ hợp là một điển hình, đem lại hiệu quả 92%. Do đó, vaccin PCV2 là một đóng góp lớn cho sức khỏe của heo trong những năm gần đây, đặc biệt là tại Anh. Các vaccin phòng bệnh do Mycoplasma hyopneumoniae thế hệ đầu đã không đem lại mức bảo hộ tối ưu. Tỷ lệ cải thiện bệnh tích phổi trong thực tế ít hơn 50%. Với chất bổ trợ thế hệ mới “dầu trong nước” hay “nước trong dầu”, hiệu quả bảo hộ đã tăng lên 60% trong thực nghiệm và 90% trong nghiên cứu công cường độc. Ngoài ra, vaccin phòng bệnh Mycoplasma hyopneumoniae tiểu đơn vị (P97) cũng đã cho thấy hiệu quả khả quan. Hiệu quả của vaccin PRRS ít rõ ràng hơn. Khả năng kích thích đáp ứng miễn dịch của vaccin chết khá yếu. Vaccin sống có tác dụng tốt trong bảo vệ heo nái trước các rối loạn sinh sản và thụ tinh. Tuy nhiên, sự biến động của vaccin và hiệu quả của chúng trên heo thịt vẫn còn đang được tranh luận. Vaccin sống nhược độc có thể làm giảm 70% bệnh tích phổi, mức dao động từ 17-97% trong 16 thí nghiệm. Có nhiều yếu tố có liên quan đến vaccin như: Vị trí nhiễm bệnh (đường hô hấp, tiêu hóa, sinh dục hay bề mặt màng nhầy), sự xuất hiện mầm bệnh trong máu (virus hay vi khuẩn)…Trong trường hợp PCV2, virus hiện diện trong máu và tiếp xúc trực tiếp với kháng thể. Với Mycoplasma hyopneumoniae, vị trí nhiễm bệnh là bề mặt màng nhầy và biểu mô. Đáp ứng kháng thể do vaccin phòng bệnh Mycoplasma chủ yếu mang tính hệ thống cùng với đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào, nhưng lại không quyết định đến sự sản xuất của kháng thể bề mặt (IgA). Các vi khuẩn như A.pleuropneuminiae, H. parasuis và S. suis có nhiều serotype nên đáp ứng bảo hộ của vaccin dao động mạnh trong điều kiện thực tế. Vaccin tiểu đơn vị và kháng nguyên độc tố đã được phát triển thành công chống lại bệnh do A.pleuropneuminiae. Vaccin này chứa các kháng nguyên có khả năng bảo hộ chéo như protein màng ngoài (OMPs), lipoprotein màng ngoài (OMLPs), ngoại độc tố phân giải tế bào (Apx I, II, III). Từ đó, chúng đem lại khả năng bảo hộ chống lại 12 serotype chính. Hiệu quả bảo hộ chéo đã được chứng minh với cả vaccin chỉ có kháng nguyên hay vaccin có thêm chất bổ trợ đặc biệt. Tuy nhiên, phản ứng phụ trên heo thỉnh thoảng xảy ra. Trên heo, một trong những vaccin tạo đáp ứng miễn dịch bề mặt đã được giới thiệu là vaccin phòng bệnh do Lawsonia intracellularris giúp phòng bệnh viêm hồi tràng. Với vaccin này, kháng nguyên vi khuẩn sẽ xâm nhập vào tế bào biểu mô màng nhầy, kích thích đáp ứng miễn dịch hệ thống và cục bộ nhưng không gây bệnh. Vaccin viêm hồi tràng đem lại hiệu quả rất tốt nhưng hiệu quả này có thể bị giảm thấp vì nhiều loại kháng sinh có thể bị giảm thấp vì nhiều loại kháng sinh có thể tiêu diệt kháng nguyên trong vaccin nếu sử dụng cùng thời điểm như: Tetracyclin, Macrolides, Lincosamides và Pleuromutilin. Vaccin tiểu đơn vị Brachyspira hyodysenteriae phòng bệnh hồng lỵ sẽ làm giảm trực tiếp áp lực sử dụng kháng sinh nếu thành công. Những tiến bộ trong vaccin cũng như những cải thiện trong quản lý sức khỏe đàn đã giúp năng suất và sức khỏe của heo tăng lên. Các kháng sinh có vai trò như hàng rào bảo vệ đầu tiên. Nhưng việc sử dụng liên tục và lạm dụng kháng sinh sẽ làm tăng sự đề kháng của các vi khuẩn. Khả năng phát triển các kháng sinh mới cho thú y rất thấp vì chúng chủ yếu bắt nguồn từ ngành dược phẩm bên người. Do đó, các kháng sinh hiện tại cần phải được dự trữ và sử dụng cẩn thận.
Posted on: Fri, 23 Aug 2013 08:06:39 +0000

Trending Topics



Pro

Recently Viewed Topics




© 2015